Tính lũy kế đến ngày 20/4/2020, cả nước có 31.862 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký 373,1 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của
các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 216,93 tỷ USD, bằng 58,2% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Thông tin chi tiết như sau:
I. VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM
1. Tình hình thu hút ĐTNN
4
tháng đầu năm 2020
1.1. Tình hình hoạt động:
Vốn thực hiện:
Tính tới 20/4/2020, ước tính các dự án đầu
tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 5,15 tỷ USD, bằng 90,4% so với cùng kỳ năm 2019.
Tình hình xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu của khu vực
ĐTNN đã tăng trở lại sau khi giảm nhẹ trong 3 tháng đầu năm. Xuất
khẩu (kể cả dầu thô) đạt 56,49 tỷ USD, tăng 1,5% so với cùng kỳ, chiếm 70,2% kim ngạch
xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô đạt 55,75 tỷ USD, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2019, chiếm
69,3% kim ngạch xuất
khẩu cả nước trong 4 tháng đầu năm
2020.
Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực
ĐTNN đạt 46,32 tỷ USD, tăng 2,9% so cùng kỳ và chiếm 57,6% kim ngạch nhập khẩu cả
nước.
Mặc dù bị tác động bởi dịch Covid-19, song trong 4 tháng đầu năm 2020, song
khu vực ĐTNN vẫn xuất siêu 10,2 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu 9,4 tỷ USD
không kể dầu thô, bù đắp phần nhập siêu 9,6 tỷ USD của khu vực trong nước, giúp
cả nước xuất siêu 983 triệu USD.
1.2. Tình hình đăng ký đầu tư:
Tính đến 20/4/2020, tổng
vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt 12,33 tỷ USD, bằng 84,5% so với cùng kỳ năm 2019. Mặc dù vốn đăng ký cấp mới và vốn
điều chỉnh tăng hơn so với cùng kỳ, song vốn góp của các nhà ĐTNN theo phương
thức GVMCP lại giảm mạnh, làm giảm tổng vốn đầu tư thu hút được trong 4 tháng
đầu năm.
Tuy nhiên, nếu xét về giá trị, vốn đăng ký 4 tháng
năm 2020 vẫn tăng so với cùng kỳ các năm 2016-2018 (tăng 52,3% so với năm 2018, 16,4% so với năm 2017 và 79% so với năm
2016). Mức độ giảm trong 4 tháng cũng ít hơn so với 3 tháng đầu năm.
Vốn đăng ký mới: Có 984 dự án mới được cấp GCNĐKĐT, tổng vốn đăng ký đạt
6,78 tỷ USD,
giảm 9,1% về số dự án và tăng 26,9% về số
vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2019. Vốn
đầu tư tăng là do trong 4 tháng đầu năm có dự án Nhà
máy điện khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) Bạc Liêu được cấp GCNĐKĐT mới với tổng vốn
đầu tư là 4 tỷ USD, chiếm 59% tổng vốn đăng ký mới. Dự án lớn đã đẩy quy mô dự
án bình quân tăng hơn so với cùng kỳ, từ 4,9 triệu USD năm 2019 lên 6,9 triệu
USD trong năm 2020.
Vốn điều chỉnh: Có 335 lượt dự án đăng ký
điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt trên 3,07 tỷ USD, tăng 45,6% so với cùng kỳ năm 2019. Vốn điều chỉnh tăng đột biến sau khi giảm liên tục trong 3 tháng đầu
năm do có Dự án tổ hợp hoá dầu Miền Nam Việt Nam tại Bà Rịa - Vũng Tàu (Thái
Lan) điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 1,386 tỷ USD. Tuy nhiên số lượt dự án điều
chỉnh vốn trong 4 tháng vẫn giảm 5,2% so với cùng kỳ.
Góp vốn, mua cổ phần: Có 3.210 lượt góp vốn, mua
cổ phần của nhà ĐTNN với tổng giá trị vốn góp gần 2,48 tỷ USD, tăng 32,9% số lượt góp vốn, mua cổ phần và bằng 34,7% về giá trị vốn
góp so với cùng kỳ năm 2019. Mặc dù số lượt góp vốn, mua cổ phần tăng, song quy
mô góp vốn nhỏ, bình quân chỉ có 0,77 triệu USD/ lượt góp vốn, nhỏ hơn nhiều so
với quy mô bình quân trong 4 tháng đầu năm 2019. Cơ
cấu giá trị góp vốn, mua cổ phần trong tổng vốn đầu tư đăng ký cũng giảm đáng
kể so với cùng kỳ năm 2019 (từ 48,9% trong
4 tháng năm 2019 xuống 20,1% trong 4 tháng năm 2020).
Theo lĩnh vực đầu tư:
Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành lĩnh vực, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn
đầu với tổng vốn đầu tư đạt gần 6 tỷ USD, chiếm 48,4% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực sản xuất, phân phối điện đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư 3,9
tỷ USD, chiếm 31,9% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo lần lượt là các lĩnh vực
bán buôn bán lẻ, hoạt động kinh doanh bất động sản với tổng vốn đăng ký 776 triệu
USD và 665 triệu USD. Còn lại là các lĩnh vực khác.
Theo đối tác
đầu tư:
Đã có 93 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư 5,07 tỷ USD, chiếm 41,1% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Thái Lan đứng thứ hai với tổng vốn
đầu tư 1,46 tỷ USD, chiếm 11,8% tổng vốn đầu tư. Nhật Bản đứng vị trí
thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký 1,16 tỷ USD, chiếm 9,4% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc,...
Nếu xét theo số lượng dự án thì Hàn Quốc đứng vị trí thứ
nhất (265 dự án); Trung Quốc đứng vị trí thứ hai (135 dự án); Nhật Bản đứng thứ
ba (116 dự án); Singapore đứng thứ tư (81 dự án);…
Theo địa bàn đầu tư:
Các nhà ĐTNN đã đầu
tư vào 57 tỉnh, thành phố trên cả nước. Bạc Liêu vẫn tiếp tục dẫn
đầu với 1 dự án lớn có vốn đầu tư 4 tỷ USD, chiếm 32,4% tổng vốn đầu tư đăng
ký. Bà Rịa - Vũng Tàu đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký đạt 1,9 tỷ USD, chiếm 15,4% tổng vốn đầu tư. TP Hồ Chí Minh đứng thứ 3 với 1,31 tỷ USD,
chiếm 10,6% tổng vốn đầu tư (trong đó đầu
tư theo phương thức góp vốn, mua cổ phần chiếm tỷ trọng lớn, chiếm 76,5 tổng
vốn đầu tư đăng ký của Thành phố, chiếm 53,1% tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần
và 40,4% tổng giá trị vốn góp của cả nước). Tiếp theo lần lượt là Hà Nội, Hà Nam, Bình Dương...
Nếu xét theo số lượng dự án thì TP Hồ Chí Minh dẫn đầu (369
dự án); Hà Nội đứng thứ hai (223 dự án); Bắc Ninh đứng thứ ba (65 dự án),….
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục II kèm theo báo
cáo).
Một số dự án lớn trong 4
tháng đầu năm 2020:
(1)
Dự án Nhà máy điện khí tự nhiên hóa lỏng
(LNG) Bạc Liêu thuộc Trung tâm nhiệt điện LNG Bạc Liêu (Singapore), cấp GCNĐKĐT
ngày 16/1/2020, tổng vốn đầu tư đăng ký 4 tỷ USD với mục tiêu sản xuất điện từ
khí tự nhiên hóa lỏng LNG.
(2) Dự án Tổ hợp hoá dầu miền Nam Việt Nam (Thái Lan) tại Bà Rịa – Vũng
Tàu, cấp GCNĐKĐT điều chỉnh ngày 18/4/2020, điều chỉnh tăng vốn đầu tư 1,386 tỷ
USD.
(3) Dự án Nhà máy sản xuất lốp xe Radian Jinyu (Việt Nam), cấp GCNĐKĐT
ngày 21/1/2020, tổng vốn đầu tư 300 triệu USD với mục tiêu sản xuất lốp xe toàn
thép TBR do nhà đầu tư Trung Quốc đầu tư tại Tây Ninh.
(4) Dự án Victory - Nhà máy sản xuất sản phẩm điện tử công nghệ cao tại
Đồng Văn, Hà Nam (Đài Loan), cấp GCNĐKĐT này 1/4/2020, tổng vốn đầu tư 273
triệu USD với mục tiêu sản xuất, lắp ráp các thiết bị máy tính điện tử và ngoại
vi máy tính; sản xuất các thiết bị âm thanh và hình ảnh điện tử dân dụng.
(5) Dự án Công trình văn phòng tại 29 Liễu Giai (Singapore), cấp
GCNĐKĐT điều chỉnh ngày 31/3/2020, điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 246 triệu
USD.
2. Tình hình thu hút ĐTNN trong tháng 4
năm 2020
Riêng trong tháng 4 năm 2020, cả nước đã thu hút được 3,78 tỷ USD vốn đăng ký cấp mới, điều
chỉnh và góp vốn, mua cổ phần của nhà ĐTNN, xấp xỉ bằng mức vốn đầu tư thu hút
được trong cùng kỳ năm 2019 (bằng 99,9%
tháng 4 năm 2019), chiếm 30,7% tổng vốn đầu tư trong 4 tháng đầu năm, tăng 81,4% so với tháng 3, gấp 3,3 lần tháng
2 và bằng gần 80% so với tháng 1/2020.
Trong đó:
- Có 229 dự án được cấp mới GCNĐKĐT, tổng vốn đăng ký đạt 1,25 tỷ USD, bằng
gần 82% so với cùng kỳ năm 2019 và chiếm 33% tổng vốn đầu tư trong tháng.
- Có 940 lượt GVMCP của nhà ĐTNN, tổng giá trị vốn góp gần 523 triệu
USD, bằng 36,1% so với cùng kỳ năm 2019 và chiếm 26% tổng vốn đầu tư trong
tháng. Nếu như trong tháng 3/2020, vốn ĐTNN theo phương thức GVMCP chiếm tỷ lệ
lớn trong cơ cấu vốn thu hút được (54,2%) thì trong tháng 4, vốn đầu tư theo
phương thức này giảm cả về giá trị cũng như tỷ lệ vốn. Một phần do giảm số lượt
GVMCP (giảm 27%), phần khác là do xuất hiện
một số dự án đầu tư mới và điều chỉnh vốn lớn trong tháng 4.
4. Tình hình ĐTNN luỹ kế tới 20/4/2020
- Theo lĩnh
vực: các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế
quốc dân, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao
nhất với 219,7 tỷ USD, chiếm 58,9% tổng vốn đầu tư, tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh
bất động sản với 59 tỷ
USD (chiếm 15,8%
tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với 27,5 tỷ USD (chiếm 7,4% tổng vốn
đầu tư).
- Theo đối tác đầu tư: Hiện đã
có 136 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Trong đó đứng đầu là Hàn Quốc với
tổng vốn đăng ký 68,8 tỷ USD (chiếm 18,4% tổng vốn đầu tư). Nhật Bản đứng thứ hai với 59,6 tỷ USD (chiếm gần
16% tổng vốn
đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài Loan, Hồng Kông.
- Theo địa bàn: ĐTNN đã có mặt ở
tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó thành phố Hồ Chí Minh vẫn là
địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với 47,6 tỷ USD (chiếm 12,8% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Hà Nội với 34,9 tỷ USD (chiếm 9,4% tổng vốn đầu tư); Bình
Dương với 34,7 tỷ USD (chiếm 9,3% tổng vốn đầu tư).
II. VỀ ĐẦU
TƯ CỦA VIỆT NAM RA NƯỚC NGOÀI
Trong 4 tháng đầu năm 2020, tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài cấp mới và tăng
thêm đạt 68,9 triệu USD, bằng 46,1% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó có 45 dự án được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới, với
tổng vốn đăng ký đạt 53,1 triệu USD (bằng 55,3%
so với cùng kỳ 2019) và 09 lượt dự án điều chỉnh vốn đầu tư
với tổn vốn tăng thêm là 15,8 triệu USD (bằng 29,5% so với cùng kỳ năm 2019).
Các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài ở 10 lĩnh vực. Trong đó
bán buôn, bán lẻ dẫn đầu, với 15 dự án, tổng vốn đăng ký 29,1 triệu USD, chiếm 42,2%.
Lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống xếp thứ 2, với tổng vốn đầu tư 15,2 triệu
USD, chiếm 22,1%; tiếp theo là các lĩnh vực hoạt động chuyên môn, khoa học công
nghệ, công nghiệp chế biến chế tạo,…
Có 18 quốc gia, vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam trong 4 tháng
đầu năm 2020. Dẫn đầu là Myanmar với 6 dự án đầu tư mới và 1 dự án điều chỉnh
tăng vốn, tổng vốn đầu tư đăng ký mới và tăng thêm đạt 21,2 triệu USD, chiếm 30,8%
tổng vốn đầu tư. Hoa Kỳ đứng thứ hai, với 20,5 triệu USD, chiếm gần 30%. Tiếp
theo là Singapore, Campuchia, Cuba,….
Số liệu đính kèm