1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tháng 4/2020 gặp khó khăn do hạn hán, xâm nhập mặn ảnh hưởng đến trồng trọt và nuôi trồng thủy sản; dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát nhưng tốc độ tái đàn chậm; dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất, tiêu thụ và xuất, nhập khẩu nông sản. Sản lượng gỗ khai thác và sản lượng thủy sản trong tháng đều giảm so với cùng kỳ năm trước.
a) Nông nghiệp
Trong tháng Tư, sản xuất nông nghiệp tập trung vào chăm sóc cây trồng vụ đông xuân ở phía Bắc; thu hoạch lúa, hoa màu vụ đông xuân và gieo trồng lúa hè thu ở phía Nam. Tính đến ngày 15/4, cả nước gieo cấy được 3.021,3 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 96,8% cùng kỳ năm trước. Các địa phương phía Bắc gieo cấy lúa đông xuân đạt 1.097,2 nghìn ha, bằng 98,5% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Hồng đạt 502,1 nghìn ha, bằng 97,5% (giảm 12,7 nghìn ha) do một số địa phương chuyển đổi cơ cấu sản xuất và mục đích sử dụng đất[1]. Hiện nay, lúa đông xuân tại các địa phương phía Bắc sinh trưởng và phát triển tốt, đang trong giai đoạn làm đòng, chuẩn bị trổ bông, tuy nhiên độ ẩm cao, mưa nắng xen kẽ nên sâu bệnh dễ phát sinh, ngành Nông nghiệp cần tập trung khoanh vùng khống chế dịch bệnh và tổ chức theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, tăng cường kiểm tra đồng ruộng để tránh lây lan trên diện rộng. Tại các địa phương phía Nam, diện tích xuống giống lúa đông xuân đạt 1.924,1 nghìn ha, bằng 95,9% cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của hạn hán và xâm nhập mặn, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.546,5 nghìn ha, giảm 58 nghìn ha do chuyển đổi mục đích sử dụng đất[2].
Đến trung tuần tháng Tư, các địa phương phía Nam đã thu hoạch được 1.679,8 nghìn ha lúa đông xuân, chiếm 87,3% diện tích xuống giống và bằng 97,6% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1.487,7 nghìn ha, chiếm 96,2% và bằng 97,2%. Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, năng suất lúa đông xuân vùng Đồng bằng sông Cửu Long năm nay ước tính đạt 68,2 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha so với vụ đông xuân trước; sản lượng đạt 10,55 triệu tấn, giảm 329,8 nghìn tấn.
Trên những diện tích lúa đông xuân đã thu hoạch, các địa phương tiến hành vệ sinh đồng ruộng, cày ải, phơi đất để xuống giống vụ hè thu. Tính đến ngày 15/4, các địa phương phía Nam gieo sạ được 602,2 nghìn ha lúa hè thu, bằng 96,8% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 589,8 nghìn ha, bằng 96,8%. Tiến độ gieo trồng lúa hè thu năm nay chậm hơn cùng kỳ năm 2019 do ảnh hưởng của hạn hán và xâm nhập mặn. Hiện nay, lúa hè thu đang ở giai đoạn mạ đến làm đòng. Các địa phương phía Nam đang bước vào cao điểm mùa khô hạn, ngành Nông nghiệp cần khuyến cáo các địa phương áp dụng kỹ thuật canh tác để hạn chế tác động của khô hạn đến sản xuất, đồng thời bảo đảm nguồn nước tưới cho cây lúa, rà soát cơ cấu mùa vụ và điều chỉnh thời vụ gieo trồng đảm bảo khung thời vụ tốt nhất cho vụ tiếp theo.
Tính đến giữa tháng Tư, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 387,7 nghìn ha ngô, bằng 97,4% cùng kỳ năm trước; 62,3 nghìn ha khoai lang, bằng 92,3%; 126,7 nghìn ha lạc, bằng 99,1%; 15,5 nghìn ha đậu tương, bằng 89,6% và 586,2 nghìn ha rau đậu, bằng 100,7%. Nhìn chung, các cây màu được gieo trồng đúng thời vụ, sinh trưởng và phát triển tốt.
Chăn nuôi trâu, bò trong tháng ổn định; dịch tả lợn châu Phi tiếp tục được kiểm soát trên cả nước, các cơ sở chăn nuôi quy mô lớn đang thực hiện tái đàn; chăn nuôi gia cầm phát triển tốt. Ước tính tháng Tư, đàn trâu cả nước giảm 2% so với cùng thời điểm năm 2019; đàn bò tăng 3,8%; đàn lợn giảm 13,2%; đàn gia cầm tăng 14%. Tính đến ngày 26/4/2020, cả nước không còn dịch tai xanh trên lợn; có 1 ổ dịch cúm gia cầm A/H5N6 tại Ninh Bình, 1 ổ dịch cúm gia cầm A/H5N1 tại Cần Thơ chưa qua 21 ngày và 2 ổ dịch lở mồm long móng tại Kon Tum. Dịch tả lợn châu Phi tái phát 6 ổ dịch tại 2 địa phương[3]. Hiện nay cả nước có 106 xã thuộc 47 huyện của 20 địa phương có ổ dịch tả lợn châu Phi chưa qua 30 ngày.
b) Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung trồng rừng vụ xuân hè ở các địa phương phía Bắc. Trong tháng Tư, diện tích rừng trồng tập trung của cả nước ước tính đạt 27,6 nghìn ha, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 7 triệu cây, giảm 1,1%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1.106 nghìn m3, giảm 11,7%; sản lượng củi khai thác đạt 1,6 triệu ste, giảm 5,3%. Dịch Covid-19 ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất lâm nghiệp trong tháng, xuất khẩu gỗ giảm, nhiều nhà máy chế biến gỗ tạm dừng hoạt động hoặc hạn chế thu mua gỗ nguyên liệu. Sản lượng gỗ khai thác giảm sâu chủ yếu ở các tỉnh: Quảng Bình đạt 20,5 nghìn m3, giảm 48% so với cùng kỳ năm trước; Quảng Ngãi đạt 90,5 nghìn m3, giảm 44,2%; Quảng Trị đạt 67,9 nghìn m3, giảm 43,8%.
Tính chung 4 tháng đầu năm, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 60,2 nghìn ha, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 28,7 triệu cây, giảm 0,6%; sản lượng gỗ khai thác đạt 3.987 nghìn m3, giảm 0,2%; sản lượng củi khai thác đạt 6,2 triệu ste, giảm 1,3%.
Công tác bảo vệ, phòng chống cháy rừng tiếp tục được tăng cường. Tuy nhiên, do thời tiết nắng nóng và người dân bất cẩn khi đốt nương làm rẫy nên hiện tượng cháy rừng vẫn xảy ra ở một số địa phương. Trong tháng Tư, cả nước có 169,7 ha rừng bị thiệt hại, tăng 38,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 92,9 ha, tăng 58,5%; diện tích bị chặt phá là 76,7 ha, tăng 20,1%. Tính chung 4 tháng đầu năm, diện tích rừng bị thiệt hại là 520,9 ha, tăng 89% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 311,5 ha, gấp 2,8 lần; diện tích rừng bị chặt phá là 209,4 ha, tăng 28,8%.
c) Thủy sản
Sản xuất thủy sản trong tháng tiếp tục gặp nhiều bất lợi do dịch Covid-19, thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước và xuất khẩu đều giảm mạnh, tình trạng hạn mặn kéo dài ảnh hưởng đến tiến độ thả nuôi tôm vụ mới. Sản lượng thủy sản tháng Tư ước tính đạt 697,8 nghìn tấn, giảm 3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 522,7 nghìn tấn, giảm 4%; tôm đạt 73,1 nghìn tấn, tăng 0,3%; thủy sản khác đạt 102 nghìn tấn, giảm 0,2%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Tư ước tính đạt 358,3 nghìn tấn, giảm 4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 254,9 nghìn tấn, giảm 6%; tôm đạt 62,9 nghìn tấn, tăng 0,5%; thủy sản khác đạt 40,5 nghìn tấn, tăng 2,8%. Nuôi cá tra gặp nhiều khó khăn, giá cá tra giảm sâu, người nuôi thua lỗ nặng[4]. Nguyên nhân do sản lượng cá tra xuất khẩu vào các thị trường chính (Mỹ, Trung Quốc, EU) giảm, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu hạn chế thu mua cá nguyên liệu nhằm giảm chi phí bảo quản. Sản lượng cá tra trong tháng ước tính đạt 102,1 nghìn tấn, giảm 9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Đồng Tháp đạt 33,8 nghìn tấn, xấp xỉ cùng kỳ năm trước; An Giang đạt 32,3 nghìn tấn, giảm 6,1%; Cần Thơ đạt 14,9 nghìn tấn, giảm 4,5%; Bến Tre đạt 8,6 nghìn tấn, giảm 35,8%. Nuôi tôm nước lợ bị ảnh hưởng kép do xâm nhập mặn kéo dài và giá giảm so với các tháng đầu năm nên người nuôi chưa đồng loạt thả giống mới như mọi năm. Sản lượng tôm sú tháng Tư ước tính đạt 20,6 nghìn tấn, giảm 8,5% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 38,9 nghìn tấn, tăng 2,4%.
Sản lượng thủy sản khai thác tháng 4/2020 ước tính đạt 339,5 nghìn tấn, giảm 1,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng khai thác biển đạt 325 nghìn tấn, giảm 2%. Tháng Tư bắt đầu vào vụ cá Nam, giá nhiên liệu giảm sâu là điều kiện tốt cho bà con ngư dân bám biển nhưng do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên tiêu thụ sản phẩm có xu hướng giảm, đặc biệt giá mỗi tấn cá ngừ đại dương đã giảm từ 10-15 triệu đồng. Do vậy, một số tàu đánh bắt cá ngừ đại dương và đánh bắt xa bờ không thu được lợi nhuận nên hạn chế ra khơi.
Tính chung 4 tháng đầu năm, sản lượng thủy sản ước tính đạt 2.200,9 nghìn tấn, tăng 0,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 1.020,4 nghìn tấn, giảm 0,1%; sản lượng khai thác đạt 1.180,5 nghìn tấn, tăng 0,8%.
2. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp trong tháng Tư chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, ước tính chỉ số sản xuất công nghiệp giảm mạnh 10,5% so với cùng kỳ năm trước và là mức giảm duy nhất của tháng Tư trong giai đoạn 2016-2020[5]. Tính chung 4 tháng đầu năm 2020, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp chỉ tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng thấp nhất trong nhiều năm qua.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 4/2020 ước tính giảm 13,3% so với tháng trước và giảm 10,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 10,7%; ngành chế biến, chế tạo giảm 11,3%; sản xuất và phân phối điện giảm 6,9%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 2%.
Tính chung 4 tháng đầu năm, IIP ước tính tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 3%, đóng góp 2,5 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 2,9%, đóng góp 0,3 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,6%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 6,8%, làm giảm 1,1 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Trước bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên thế giới, tình trạng thiếu nguyên liệu nhập khẩu đầu vào phục vụ sản xuất gây ảnh hưởng nặng nề đến ngành công nghiệp. Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 4 tháng đầu năm giảm sâu hoặc tăng rất thấp so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất xe có động cơ giảm 14,2%; sản xuất đồ uống giảm 13,9%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 10,8%; sản xuất máy móc thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 9,3%; chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 8,8%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị giảm 8,2%; sản xuất trang phục giảm 6,3%; sản xuất thiết bị điện giảm 3,6%; sản xuất các sản phẩm khoáng phi kim loại khác giảm 1,8%; sản xuất kim loại giảm 1,7%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 0,5%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 0,7%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 1,3%; dệt tăng 1,4%. Bên cạnh đó, một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất 4 tháng tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 25,9%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 16,9% (sản xuất sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 18%); khai thác quặng kim loại tăng 16,5%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 9,7%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 8,8%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 8,2%…
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực trong 4 tháng giảm sâu và tăng thấp so với cùng kỳ năm trước như: Bia giảm 24,1%; ô tô giảm 23,8%; đường kính giảm 23,5%; xe máy giảm 16,6%; dầu thô khai thác giảm 12%; khí hóa lỏng LPG giảm 11,8%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 9,8%; vải dệt từ sợi nhân tạo giảm 8,5%; thức ăn gia súc giảm 7,8%; sắt thép thô giảm 7,1%; quần áo mặc thường giảm 5,9%; giày, dép da giảm 4,9%; thép cán giảm 4%; phân hỗn hợp NPK giảm 3,1%; vải dệt từ sợi tự nhiên giảm 1,7%; thức ăn cho thủy sản giảm 1%; alumin giảm 0,7%; sữa tươi tăng 0,6%; ti vi tăng 1%; xi măng tăng 1,3%; thủy hải sản chế biến tăng 1,9%; sơn hóa học tăng 2,6%; điện sản xuất tăng 3%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Linh kiện điện thoại tăng 28,5%; bột ngọt tăng 19,2%; xăng dầu các loại tăng 13,9%; phân u rê tăng 11,7%; thép thanh, thép góc tăng 7,7%; than sạch và nước máy thương phẩm cùng tăng 5,5%.
Sản xuất công nghiệp tháng 4/2020 sụt giảm mạnh do tác động của dịch Covid-19 làm cho phần lớn các doanh nghiệp phải cắt giảm lao động. Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/4/2020 giảm 1,1% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 1,6% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2019 tăng 2,3%), trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài Nhà nước cùng giảm 2,9%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 0,7%. Tại thời điểm trên, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 3,2% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo giảm 1,6%; sản xuất và phân phối điện tăng 1,1%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 0,7%.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[6]
Đăng ký doanh nghiệp trong tháng Tư chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, cả nước có 7.885 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký 93,9 nghìn tỷ đồng, giảm 46,9% về số doanh nghiệp và giảm 43,8% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm, cả nước có 37,6 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 13,2% so với cùng kỳ năm trước, đáng chú ý là số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn lên tới 22,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 33,6%.
Trong tháng 4/2020, cả nước có 7.885 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 93,9 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký là 72 nghìn lao động, giảm 35,7% về số doanh nghiệp, giảm 28,6% về vốn đăng ký và giảm 16,4% về số lao động so với tháng 3/2020. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 11,9 tỷ đồng, tăng 11,2% so với tháng trước và tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2019. Trong tháng, cả nước còn có 3.810 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 11,3% so với tháng trước và tăng 40,4% so với cùng kỳ năm 2019, đây là tín hiệu cho thấy một bộ phận doanh nghiệp đang tái khởi động để chuẩn bị đón cơ hội kinh doanh mới khi dịch Covid-19 được kiểm soát; 4.121 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 68,1% và tăng 65,2%; 2.166 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 22,2% và tăng 13,8%; 980 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 25,5% và giảm 17,6%; 2.864 doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, giảm 51,6% và tăng 42,8%.
Tính chung 4 tháng đầu năm, cả nước có 37,6 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 445,2 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 315,7 nghìn lao động, giảm 13,2% về số doanh nghiệp, giảm 17,9% về vốn đăng ký và giảm 29,7% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 4 tháng đạt 11,8 tỷ đồng, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 680,9 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 11,7 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 4 tháng đầu năm là 1.126,1 nghìn tỷ đồng, giảm 20,4% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có 17,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 2,1% so với 4 tháng đầu năm 2019, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 4 tháng lên 55,4 nghìn doanh nghiệp, trung bình mỗi tháng có 13,8 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Theo khu vực kinh tế, 4 tháng đầu năm có 558 doanh nghiệp thành lập mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, giảm 6,2% so với cùng kỳ năm trước; có 10,5 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng, giảm 10,7%; có 26,5 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ, giảm 14,3%. Trong tất cả các ngành, lĩnh vực hoạt động có duy nhất ngành sản xuất phân phối điện, nước, gas có số doanh nghiệp thành lập mới tăng với 527 doanh nghiệp, tăng 40,5% so với cùng kỳ năm trước. Các ngành còn lại đều có số doanh nghiệp thành lập mới giảm: bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có 12.717 doanh nghiệp, giảm 10,6% so với cùng kỳ năm 2019; xây dựng 5.011 doanh nghiệp, giảm 13,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo 4.821 doanh nghiệp, giảm 12,1%; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác 3.473 doanh nghiệp, giảm 4%; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác 2.055 doanh nghiệp, giảm 18,7%; kinh doanh bất động sản 1.742 doanh nghiệp, giảm 29,1%; vận tải, kho bãi 1.615 doanh nghiệp, giảm 14,5%; dịch vụ lưu trú và ăn uống 1.540 doanh nghiệp, giảm 23,3%; thông tin truyền thông 1.177 doanh nghiệp, giảm 3,7%; giáo dục và đào tạo 968 doanh nghiệp, giảm 24,8%; tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 388 doanh nghiệp, giảm 13,4%; nghệ thuật, vui chơi, giải trí 261 doanh nghiệp, giảm 38,4%.
Trong 4 tháng, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 22,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 33,6% so với cùng kỳ năm trước; gần 14 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 19,2%, trong đó có 2.903 doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; 5.277 doanh nghiệp đăng thông báo giải thể và 5.776 doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể với cơ quan thuế.
Cũng trong 4 tháng đầu năm có 5,1 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 3,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó có gần 4,6 nghìn doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, giảm 4,5%; 75 doanh nghiệp có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng, tăng 8,7%. Doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực: bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có 1,9 nghìn doanh nghiệp; công nghiệp chế biến, chế tạo có 599 doanh nghiệp; xây dựng có 425 doanh nghiệp; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác có 312 doanh nghiệp; dịch vụ lưu trú và ăn uống có 302 doanh nghiệp; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng, các dịch vụ hỗ trợ khác và kinh doanh bất động sản đều có 279 doanh nghiệp; vận tải, kho bãi và giáo dục, đào tạo đều có 202 doanh nghiệp; thông tin truyền thông có 190 doanh nghiệp. Trong 4 tháng, trên cả nước còn có 14,3 nghìn doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước.
4. Đầu tư
Diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 ảnh hưởng đến tiến độ thi công các dự án, công trình. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 4/2020 ước tính đạt 23,2 nghìn tỷ đồng, thấp hơn tháng 3/2020[7] và đạt mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ năm trước trong giai đoạn 2016-2020[8]. Tính chung 4 tháng đầu năm, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 18,1% kế hoạch năm[9], tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 4 tháng đạt 5,2 tỷ USD, giảm 9,6%[10].
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 4/2020 ước tính đạt 23,2 nghìn tỷ đồng, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn Trung ương 3,6 nghìn tỷ đồng, tăng 31%; vốn địa phương 19,6 nghìn tỷ đồng, giảm 3,2%. Tính chung 4 tháng đầu năm, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 83,7 nghìn tỷ đồng, bằng 18,1% kế hoạch năm và tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 bằng 19,3% và tăng 4%), gồm có:
– Vốn Trung ương quản lý đạt 12,3 nghìn tỷ đồng, bằng 15,8% kế hoạch năm và tăng 32,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Bộ Giao thông Vận tải đạt 2.778 tỷ đồng, bằng 16% và tăng 37,2%; Bộ Y tế 1.028 tỷ đồng, bằng 19,3% và tăng 34,8%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 662 tỷ đồng, bằng 14,9% và tăng 25,9%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 423 tỷ đồng, bằng 14,1% và tăng 87,7%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 161 tỷ đồng, bằng 12,5% và giảm 8%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 99 tỷ đồng, bằng 15,1% và giảm 27,9%; Bộ Công Thương 59 tỷ đồng, bằng 15,3% và tăng 46,7%; Bộ Xây dựng 45 tỷ đồng, bằng 13,1% và tăng 7,4%; Bộ Khoa học và Công nghệ 37 tỷ đồng, bằng 14,7% và giảm 39,1%; Bộ Thông tin và Truyền thông 18 tỷ đồng, bằng 14,3% và giảm 26,6%.
– Vốn địa phương quản lý đạt 71,4 nghìn tỷ đồng, bằng 18,6% kế hoạch năm và tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 47,7 nghìn tỷ đồng, bằng 17,8% và tăng 9%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 19,8 nghìn tỷ đồng, bằng 19,7% và tăng 12,1%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 3,9 nghìn tỷ đồng, bằng 24,5% và tăng 14,9%. Vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 4 tháng đầu năm của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 9.476 tỷ đồng, bằng 20,9% kế hoạch năm và giảm 2,1% so với cùng kỳ năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 4.413 tỷ đồng, bằng 9,2% và tăng 5,4%; Quảng Ninh 2.733 tỷ đồng, bằng 21,3% và tăng 17,9%; Thanh Hóa 2.499 tỷ đồng, bằng 24,4% và tăng 10,9%; Bà Rịa – Vũng Tàu 2.258 tỷ đồng, bằng 23,3% và tăng 12,5%; Bình Dương 2.132 tỷ đồng, bằng 16% và tăng 11,3%; Nghệ An 1.875 tỷ đồng, bằng 24,2% và tăng 11,9%; Quảng Nam 1.814 tỷ đồng, bằng 27,7% và giảm 2,9%; Hải Phòng 1.784 tỷ đồng, bằng 22,1% và giảm 1,7%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/4/2020 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 12,3 tỷ USD, giảm 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 984 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 6,8 tỷ USD, giảm 9,1% về số dự án và tăng 26,9% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 335 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 3 tỷ USD, tăng 45,6%; có 3.210 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn gần 2,5 tỷ USD, giảm 65,3%. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 584 lượt góp vốn làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp là 0,9 tỷ USD và 2.626 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 1,6 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 4 tháng đầu năm ước tính đạt 5,2 tỷ USD, giảm 9,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 3.809,7 triệu USD, chiếm 74% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 543,4 triệu USD, chiếm 10,6%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 452,7 triệu USD, chiếm 8,8%.
Trong 4 tháng đầu năm, ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí được cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 4 tỷ USD, chiếm 59% tổng số vốn đăng ký cấp mới; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 2,2 tỷ USD, chiếm 32,9%, các ngành còn lại đạt 546,3 triệu USD, chiếm 8,1%. Nếu tính cả vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt gần 5 tỷ USD[11], chiếm 50,3% tổng số vốn; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 3,8 tỷ USD[12], chiếm 39,1%; các ngành còn lại đạt 1,1 tỷ USD chiếm 10,6%. Đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt hơn 1 tỷ USD, chiếm 40,6% tổng vốn; bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy đạt 508,2 triệu USD, chiếm 20,5%; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đạt 250,3 triệu USD, chiếm 10,1%; các ngành còn lại đạt 713 triệu USD, chiếm 28,8%.
Trong số 57 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 4 tháng đầu năm, Xin-ga-po là nhà đầu tư lớn nhất với 4.268,1 triệu USD, chiếm 62,9% tổng vốn đăng ký cấp mới; Đài Loan 646,4 triệu USD, chiếm 9,5%; Trung Quốc 507,2 triệu USD, chiếm 7,5%; Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) 380,5 triệu USD, chiếm 5,6%; Hàn Quốc 376 triệu USD, chiếm 5,5%; Nhật Bản 194,2 triệu USD, chiếm 2,9%; Quần đảo Cay-man 100 triệu USD, chiếm 1,5%.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 4 tháng đầu năm có 45 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đầu tư của phía Việt Nam là 53,1 triệu USD; có 9 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm đạt 15,8 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) 4 tháng đạt 68,9 triệu USD, trong đó lĩnh vực bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 29,1 triệu USD, chiếm 42,2% tổng vốn đầu tư; dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 15,2 triệu USD, chiếm 22,1%; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đạt 12 triệu USD, chiếm 17,4%; công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 9 triệu USD, chiếm 13,1%. Trong 4 tháng đầu năm có 18 quốc gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam, trong đó Mi-an-ma là nước dẫn đầu với 21,2 triệu USD, chiếm 30,8%; Hoa Kỳ 20,5 triệu USD, chiếm 29,8%; Xin-ga-po 15,9 triệu USD, chiếm 23,1%; Cam-pu-chia 15,5 triệu USD, chiếm 22,5%.
5. Thu, chi ngân sách nhà nước
Trước tác động tiêu cực của dịch Covid-19 tới hoạt động sản xuất kinh doanh, Chính phủ đã ban hành các giải pháp hỗ trợ cho những đối tượng chịu ảnh hưởng của dịch bệnh. Do vậy, thu ngân sách Nhà nước trong 15 ngày đầu tháng 4/2020 giảm mạnh so với cùng kỳ tháng trước. Chi ngân sách Nhà nước tập trung bảo đảm các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, y tế, quản lý Nhà nước và thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/4/2020 ước tính đạt 427,2 nghìn tỷ đồng, bằng 28,2% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 351,6 nghìn tỷ đồng, bằng 27,8%; thu từ dầu thô 17,3 nghìn tỷ đồng, bằng 49,1%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 58 nghìn tỷ đồng, bằng 27,9%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 40,3 nghìn tỷ đồng, bằng 22,7% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 63,2 nghìn tỷ đồng, bằng 27,6%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 70,5 nghìn tỷ đồng, bằng 26%; thu thuế thu nhập cá nhân 41,4 nghìn tỷ đồng, bằng 32,2%; thu thuế bảo vệ môi trường 14,1 nghìn tỷ đồng, bằng 20,9%; thu tiền sử dụng đất 38,5 nghìn tỷ đồng, bằng 40,2%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/4/2020 ước tính đạt 408,5 nghìn tỷ đồng, bằng 23,4% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 291,6 nghìn tỷ đồng, bằng 27,6%; chi đầu tư phát triển 76,6 nghìn tỷ đồng, bằng 16,3%; chi trả nợ lãi 38,6 nghìn tỷ đồng, bằng 32,7%.
[1] Chuyển 2 nghìn ha sang xây dựng cơ sở hạ tầng; 2,4 nghìn ha sang trồng cây lâu năm; 1 nghìn ha sang nuôi trồng thủy sản; 4,9 nghìn ha bỏ hoang do lao động nông thôn chuyển sang các ngành sản xuất phi nông nghiệp.
[2] Chuyển 819 ha sang đất phi nông nghiệp; 3,1 nghìn ha sang trồng cây hằng năm khác; 15 nghìn ha sang trồng cây lâu năm; 840 ha sang nuôi trồng thủy sản; 36,5 nghìn ha bỏ không gieo trồng do bị nhiễm mặn.
[3] Bắc Kạn và Hà Nội.
[4] Giá cá tra thương phẩm hiện dao động từ 17.500-18.500 đồng/kg trong khi giá thành sản xuất từ 21.000-22.000 đồng/kg.
[5] Tốc độ tăng/giảm chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Tư so với cùng kỳ năm trước các năm giai đoạn 2016-2020: Năm 2016 tăng 7,3%; năm 2017 tăng 10,9%; năm 2018 tăng 5,3%; năm 2019 tăng 9%; năm 2020 giảm 10,5%.
[6] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
[7] Vốn thực hiện từ nguồn NSNN tháng 3/2020 đạt 23,4 nghìn tỷ đồng.
[8] Tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn NSNN tháng 4 so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020: năm 2016 tăng 13,7%; năm 2017 tăng 6,1%; năm 2018 tăng 8,6%; năm 2019 tăng 4,4%; năm 2020 tăng 0,8%.
[9] Tỷ lệ vốn thực hiện từ nguồn NSNN 4 tháng so với kế hoạch năm giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: 22,7%; 21,1%; 20,3%; 19,3% và 18,1%.
[10] Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 4 tháng giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: 4,7 tỷ USD; 4,8 tỷ USD; 5,3 tỷ USD; 5,7 tỷ USD; 5,2 tỷ USD.
[11] Trong tháng Tư có nhiều lượt dự án ngành chế biến, chế tạo điều chỉnh vốn đăng ký, trong đó: Dự án Tổ hợp hóa dầu miền Nam Việt Nam tại Bà Rịa – Vũng Tàu (Thái Lan đầu tư) bổ sung 1.386 triệu USD; dự án Công trình văn phòng tại 29 Liễu Giai, Hà Nội (Xin-ga-po đầu tư) 246 triệu USD; dự án Chế tạo lốp xe Radian Trung Quốc tại Tây Ninh 138 triệu USD; Nhà máy sản xuất tai nghe, dây kết nối new wing Xin-ga-po tại Bắc Giang 120 triệu USD.
[12] Ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí có 2 dự án điều chỉnh vốn làm giảm 152,8 triệu USD.