BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
CỤC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Thứ Tư, 25/12/2024
Vùng, Thông tin
Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội Quý I năm 2020 (phần 1)
Thứ Sáu, 22/05/2020 05:01
Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội Quý I năm 2020 (phần 1)

Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong quý I năm nay như sau:

I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2020 ước tính tăng 3,82% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng thấp nhất của quý I các năm trong giai đoạn 2011-2020[2]. Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới
mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội, toàn bộ hệ thống chính trị, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đặt ưu tiên hàng đầu lên phòng chống và dập dịch, hy sinh lợi ích kinh tế để đảm bảo tính mạng và sức khỏe của nhân dân thì nền kinh tế nước ta tiếp tục duy trì tăng trưởng, không rơi vào tình trạng tăng trưởng âm là thắng lợi của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và người dân trong cuộc chiến đẩy lùi dịch bệnh, đồng thời vẫn duy trì các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,08%, đóng góp 0,2% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,15%, đóng góp 58,4%; khu vực dịch vụ tăng 3,27%, đóng góp 41,4%.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong quý I/2020 tăng thấp so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, dịch Covid-19 và dịch tả lợn châu Phi. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng trưởng âm 1,17%, chỉ cao hơn mức tăng trưởng âm 2,69% của quý I/2016 trong giai đoạn 2011-2020[3], làm giảm 0,1 điểm phần trăm mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 5,03% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,04 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,79%, thấp hơn mức tăng 4,96% và 5,42% của cùng kỳ các năm 2018 và 2019, đóng góp 0,07 điểm phần trăm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp quý I/2020 tăng 5,28% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều mức tăng 10,45% của quý I/2018 và 9% của quý I/2019, đóng góp 1,89 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,12%, chỉ cao hơn mức tăng 4,38% và 5,97% của cùng kỳ các năm 2013 và 2014 trong giai đoạn 2011-2020[4], đóng góp 1,64 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng tăng trưởng âm 3,18%, làm giảm 0,21 điểm phần trăm mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế do sản lượng dầu thô khai thác giảm 10,9% và khí đốt tự nhiên giảm 9,9%. Ngành xây dựng tăng 4,37%, cao hơn mức tăng 0,35% và 1,18% của quý I năm 2011 và năm 2012 trong giai đoạn 2011-2020[5], đóng góp 0,25 điểm phần trăm.

Trong những tháng đầu năm 2020, dịch Covid-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại, dịch vụ và xuất nhập khẩu. Khu vực dịch vụ trong quý I/2020 đạt mức tăng thấp nhất của cùng kỳ các năm 2011-2020[6]. Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của quý I như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 5,69% so với cùng kỳ năm trước, là ngành đóng góp lớn nhất vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế (0,7 điểm phần trăm); hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,19%, đóng góp 0,33 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm 0,9%, làm giảm 0,03 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 11,04%, làm giảm 0,53 điểm phần trăm.

Về cơ cấu nền kinh tế quý I/2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 10,11%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 35,52%; khu vực dịch vụ chiếm 43,71%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,66% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2019 là: 10,15%; 35,31%; 43,99%; 10,55%).

Trên góc độ sử dụng GDP quý I/2020, tiêu dùng cuối cùng tăng 3,07% so với cùng kỳ năm 2019; tích lũy tài sản tăng 2,20%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 1,59%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 1,05%.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I/2020 gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi; hạn hán, xâm nhập mặn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long; dịch cúm gia cầm có nguy cơ bùng phát và dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, tác động tiêu cực tới hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu sản phẩm nông sản. Sản xuất lâm nghiệp phát triển ổn định; sản xuất thủy sản quý I/2020 tăng thấp hơn cùng kỳ năm trước.

a) Nông nghiệp

Tính đến trung tuần tháng Ba, cả nước gieo trồng được 2.998,7 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 97% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 1.076,8 nghìn ha, bằng 98,9%; các địa phương phía Nam đạt 1.921,9 nghìn ha, bằng 96%. Tại các địa phương phía Bắc, thời tiết nắng ấm cùng nguồn nước tưới được cung ứng hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho việc gieo trồng lúa. Hiện nay, cây lúa đang trong giai đoạn đẻ nhánh, làm đòng, sinh trưởng và phát triển tốt. Tuy nhiên dự báo thời tiết sẽ nắng nóng, sâu bệnh gây hại diễn biến phức tạp, cần theo dõi sát diễn biến tình hình sâu bệnh và xử lý kịp thời các ổ bệnh để không ảnh hưởng đến sự phát triển của cây lúa. Sản xuất lúa đông xuân ở các địa phương phía Nam gặp khó khăn do tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng, riêng diện tích gieo trồng lúa đông xuân vùng Đồng bằng sông Cửu Long năm nay đạt 1.546,4 nghìn ha, giảm 57,9 nghìn ha so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có diện tích lúa giảm nhiều là: Bình Thuận giảm 15,5 nghìn ha; Sóc Trăng giảm 15,4 nghìn ha; Trà Vinh giảm 8,2 nghìn ha; Ninh Thuận giảm 5,1 nghìn ha. Đến nay, các địa phương phía Nam đã thu hoạch 1.143,1 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 105,9% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1.121 nghìn ha, bằng 105,9% với năng suất ước tính đạt 68,6 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha so với vụ đông xuân năm trước. Có được kết quả này là do ngành Nông nghiệp đã chủ động triển khai các giải pháp phòng chống và ứng phó với tình trạng xâm nhập mặn, sử dụng các loại giống lúa ít bị nhiễm sâu bệnh cho năng suất cao. Xâm nhập mặn ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang có xu hướng tăng cao, tính đến ngày 20/3/2020 có 33,8 nghìn ha lúa đông xuân bị nhiễm mặn, trong đó diện tích mất trắng là 20,2 nghìn ha, chiếm 1,3% diện tích gieo trồng. Một số địa phương có diện tích lúa đông xuân bị thiệt hại nhiều do xâm nhập mặn: Trà Vinh 6,8 nghìn ha, Bến Tre 5,3 nghìn ha, Sóc Trăng 3,6 nghìn ha.

Đến trung tuần tháng Ba, vùng Đồng bằng sông Cửu Long kết thúc thu hoạch lúa vụ mùa 2019-2020. Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, diện tích gieo trồng lúa mùa của toàn vùng ước tính đạt 169,2 nghìn ha, giảm 2,5 nghìn ha so với cùng kỳ năm trước; năng suất đạt 44,5 tạ/ha, giảm 0,9 tạ/ha; sản lượng đạt 753,2 nghìn tấn, giảm 26,6 nghìn tấn. Diện tích lúa bị nhiễm mặn làm năng suất lúa mùa giảm, đồng thời việc chuyển đổi diện tích trồng lúa mùa sang nuôi trồng thủy sản ở một số địa phương đã ảnh hưởng tới kết quả sản xuất vụ mùa của toàn vùng. Một số địa phương có diện tích gieo trồng lúa mùa giảm so với cùng kỳ năm trước: Cà Mau giảm 2,1 nghìn ha; Kiên Giang giảm 1,5 nghìn ha, Bến Tre giảm 0,8 nghìn ha.

Tính đến giữa tháng Ba, các địa phương trong cả nước đã gieo trồng được 312,9 nghìn ha ngô, bằng 98,7% cùng kỳ năm trước; 56 nghìn ha khoai lang, bằng 91,1%; 13,4 nghìn ha đỗ tương, bằng 89,3%; 113 nghìn ha lạc, bằng 93,5%; 543,8 nghìn ha rau đậu, bằng 101,5%.

Trong quý I/2020, một số cây công nghiệp lâu năm đã cho thu hoạch, trong đó: Sản lượng điều đạt 149,8 nghìn tấn, tăng 6% so với cùng kỳ năm trước; hồ tiêu đạt 137,6 nghìn tấn, tăng 2%; cao su đạt 115,1 nghìn tấn, tăng 3,5%. Sản lượng một số loại cây ăn quả tăng: Bưởi đạt 140 nghìn tấn, tăng 12%; thanh long đạt 390 nghìn tấn, tăng 10%; cam đạt 229,3 nghìn tấn, tăng 8%; xoài đạt 107,7 nghìn tấn, tăng 4,5%; dứa đạt 245,3 nghìn tấn, tăng 3%; nhãn đạt 82,6 nghìn tấn, tăng 3%; chôm chôm đạt 41,9 nghìn tấn, tăng 1,9%; chuối đạt 592,4 nghìn tấn, tăng 1,3%.

Chăn nuôi trâu bò nhìn chung ổn định. Đàn trâu cả nước tiếp tục xu hướng giảm do hiệu quả kinh tế không cao; đàn bò phát triển khá do thị trường tiêu thụ ổn định, giá bán thịt bò hơi ở mức cao nên người nuôi có lãi. Ước tính tháng 3/2020, đàn trâu của cả nước giảm 2% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò tăng 3,6%. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng trong quý I/2020 đạt 27,5 nghìn tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng đạt 106,5 nghìn tấn, tăng 7,3%; sản lượng sữa bò tươi đạt 257,1 nghìn tấn, tăng 5%. Chăn nuôi lợn có xu hướng dần hồi phục trở lại, dịch tả lợn châu Phi tiếp tục được kiểm soát với 41/63 địa phương công bố hết dịch. Ước tính tổng đàn lợn cả nước tháng Ba giảm 17,5% so với cùng thời điểm năm 2019; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý I/2020 đạt 811 nghìn tấn, giảm 19,3% so với cùng kỳ năm trước.

Chăn nuôi gia cầm tiếp tục phát triển do các hộ chăn nuôi mở rộng quy mô, tuy nhiên dịch cúm gia cầm còn xuất hiện ở một số địa phương và thời tiết mưa ẩm là điều kiện thuận lợi cho vi rút cúm tồn tại, lây lan nên cần có biện pháp để phòng, chống dịch hiệu quả. Ước tính tổng đàn gia cầm của cả nước tháng Ba tăng 15% so với cùng thời điểm năm 2019; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng quý I/2020 đạt 383,4 nghìn tấn, tăng 17,6% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng trứng gia cầm đạt 4,1 tỷ quả, tăng 14,1%.

Tính đến ngày 25/3/2020, cả nước không còn dịch tai xanh và dịch tả lợn châu Phi không phát sinh thêm ổ dịch mới, có 6 ổ dịch cúm gia cầm A/H5N6 tại 5 địa phương[7] và 6 ổ dịch lở mồm long móng tại 4 tỉnh[8] chưa qua 21 ngày.

b) Lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào công tác trồng rừng và chăm sóc rừng ở các địa phương trên cả nước. Trong tháng Ba, diện tích rừng trồng tập trung của cả nước ước tính đạt 17,1 nghìn ha, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác đạt 1.095,3 nghìn m3, tăng 7,3%; số cây trồng phân tán đạt 11 triệu cây, giảm 2,5%. Tính chung quý I/2020, diện tích rừng trồng tập trung cả nước ước tính đạt 32,6 nghìn ha, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 21,7 triệu cây, giảm 0,5%; sản lượng gỗ khai thác đạt 2.881 nghìn m3, tăng 5%; sản lượng củi khai thác đạt 4,6 triệu ste, tăng 0,2%.

Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng 3/2020 là 263,5 ha, trong đó diện tích rừng bị cháy là 194,1 ha; diện tích bị chặt phá là 69,4 ha. Tính chung quý I/2020, diện tích rừng bị thiệt hại là 348,3 ha, gấp 2,3 lần cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 217,1 ha, gấp 4 lần; diện tích rừng bị chặt phá là 131,2 ha, tăng 37%.

c) Thủy sản

Sản lượng thủy sản tháng Ba ước tính đạt 502,2 nghìn tấn, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 368,4 nghìn tấn, tăng 0,8%; tôm đạt 51,8 nghìn tấn, tăng 3,8%; thủy sản khác đạt 82 nghìn tấn, tăng 1,4%.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 160,1 nghìn tấn, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 104,9 nghìn tấn, giảm 2,1%; tôm đạt 37,4 nghìn tấn, tăng 7,8%. Nuôi cá tra đang gặp khó khăn và chưa có dấu hiệu phục hồi, giá cá tra hiện ở mức thấp nhất trong 10 năm qua, người nuôi lo ngại nên không mạnh dạn thả nuôi. Ngoài ra, ảnh hưởng của dịch Covid-19 làm xuất khẩu cá da trơn sang các thị trường chủ yếu sụt giảm[9]. Sản lượng cá tra tháng Ba ước tính đạt 74,7 nghìn tấn, giảm 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2020, sản lượng cá tra ước tính đạt 242,8 nghìn tấn, giảm 3,7% so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có sản lượng cá tra giảm: Đồng Tháp đạt 97,8 nghìn tấn, giảm 1,1%; An Giang đạt 77,8 nghìn tấn, giảm 4,7%; Cần Thơ 33,2 nghìn tấn, giảm 8,9%. Nuôi tôm nước lợ những tháng đầu năm 2020 đối mặt với nhiều khó khăn như tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn; độ mặn và nhiệt độ thay đổi làm giảm sức đề kháng của tôm; giá tôm thẻ chân trắng không ổn định. Riêng giá tôm sú trong quý I/2020 ở mức cao hơn so với cùng kỳ năm trước, mô hình nuôi tôm sú đã chuyển từ quảng canh sang quảng canh cải tiến. Sản lượng tôm sú tháng Ba ước tính đạt 18,8 nghìn tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 8,7 nghìn tấn, tăng 10,2%. Tính chung quý I/2020, sản lượng tôm sú ước tính đạt 45 nghìn tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 49,8 nghìn tấn, tăng 8,5%.

Sản lượng thủy sản khai thác tháng Ba ước tính đạt 342,1 nghìn tấn, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng cá đạt 263,5 nghìn tấn, tăng 2%; tôm đạt 14,4 nghìn tấn, giảm 5,3%, thủy sản khác đạt 64,2 nghìn tấn, tăng 0,6%. Sản lượng thủy sản khai thác biển đạt 334 nghìn tấn, tăng 1,4%.

Tính chung quý I/2020, sản lượng thủy sản ước tính đạt 1.503,1 nghìn tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 662,1 nghìn tấn, tăng 2,1%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 841 nghìn tấn, tăng 1,9% (sản lượng thủy sản khai thác biển đạt 806,2 nghìn tấn, tăng 2%).

3. Sản xuất công nghiệp

Ngành công nghiệp quý I/2020 chịu ảnh hưởng từ dịch Covid-19 nên đạt mức tăng trưởng thấp 5,28% so với cùng kỳ năm trước; trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo có mức tăng thấp nhất giai đoạn 2016-2020[10]; sản xuất và phân phối điện tăng trưởng ổn định; ngành khai khoáng giảm sâu chủ yếu do khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm mạnh.

Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý I/2020 ước tính tăng 5,28% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,12%, đóng góp 1,64 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 7,46%, đóng góp 0,41 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,67%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 3,18% do khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm mạnh, làm giảm 0,21 điểm phần trăm.

Xét theo công dụng sản phẩm công nghiệp, chỉ số sản xuất sản phẩm trung gian (phục vụ cho quá trình sản xuất tiếp theo) quý I/2020 tăng 6% so với cùng kỳ năm trước; sản phẩm phục vụ cho sử dụng cuối cùng tăng 3,6% (sản phẩm là tư liệu sản xuất tăng 0,6% và sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng của dân cư tăng 4,5%).

Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, bùng phát mạnh tại một số quốc gia đã ảnh hưởng đến nguồn nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất công nghiệp, đặc biệt là ngành chế biến, chế tạo. Ngoài ra, Nghị định số 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt có hiệu lực ngày 1/1/2020 đã thay đổi thói quen uống rượu, bia của người dân, từ đó ảnh hưởng đến ngành sản xuất đồ uống. Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất quý I/2020 giảm hoặc tăng thấp so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 15,4%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 10,4% (khai thác dầu thô giảm 10,9%; khai thác khí đốt tự nhiên giảm 9,9%); sản xuất đồ uống giảm 9%; hoạt động dịch vụ hỗ trợ và khai thác mỏ, quặng giảm 8,2%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị giảm 7%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 4,2%; ngành sản xuất trang phục chịu tác động nặng nhất từ dịch Covid-19 với mức giảm 3%, đây cũng là lần đầu tiên ngành này sụt giảm; sản xuất xe có động cơ giảm 2,5%; sản xuất thiết bị điện giảm 2,3%; sản xuất kim loại tăng 2,8%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 4%. Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số sản xuất quý I/2020 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 28,3%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế và khai thác quặng kim loại cùng tăng 22,4%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 14,3%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 8,9%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 8,4%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu quý I/2020 tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước: Phân u rê tăng 3,6%; sữa tươi tăng 3%; alumin tăng 2,7%; ti vi tăng 0,2%; xe máy giảm 0,9%; quần áo mặc thường giảm 3,1%; phân hỗn hợp NPK giảm 3,7%; thép cán giảm 4,3%; thức ăn cho gia súc giảm 4,4%; sắt, thép thô giảm 4,5%; sữa bột giảm 7,1%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 9,9%; ô tô giảm 10,4%; dầu thô khai thác giảm 10,9%; đường kính giảm 17%; bia giảm 18,9%. Một số sản phẩm tăng cao: Linh kiện điện thoại tăng 34,7%; xăng, dầu các loại tăng 17,4%; thép thanh, thép góc tăng 17,2%; bột ngọt tăng 12,3%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 11,3%; điện thoại di động tăng 11,1% (điện thoại thông minh giảm 2,7%); giày, dép da tăng 8,5%; nước máy thương phẩm tăng 8,1%; than sạch tăng 7,9%; điện sản xuất tăng 7,2%.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 3/2020 tăng 11,6% so với tháng trước và tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2020, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp ở mức 2,8% so với quý I/2019 (thấp hơn nhiều so với mức tăng 8% của quý I/2019), trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 27,3%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 24,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 22,8%; dệt tăng 13,4%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 12,5%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 9,5%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 2,6%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 2%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 1,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 0,7%; sản xuất kim loại giảm 1%; sản xuất trang phục giảm 3,2%; sản xuất thiết bị điện giảm 4,3%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 6,6%; sản xuất đồ uống giảm 12,2%.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2020 tăng 24,9% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2019 tăng 15,6%), trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: In, sao chép bản ghi các loại tăng 4%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 4,5%; sản xuất thiết bị điện giảm 6,2%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 9,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 16,5%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 39,4%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng thời điểm năm trước: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 27,5%; dệt tăng 36,2%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 45,4%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 47,2%; sản xuất kim loại tăng 48,8%; sản xuất xe có động cơ tăng 122,5%.

Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I/2020 đạt 78,4% (cùng kỳ năm trước là 72,9%), trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Dệt 115%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 104,6%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác 104,5%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa 103%; sản xuất chế biến thực phẩm 93%; sản xuất thiết bị điện 88,7%.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/3/2020 tăng 1,2% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 1,4% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 2,7%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước không đổi và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 2,8%. Tại thời điểm trên, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 2,7% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 1,6%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 0,1%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,4%.

4. Hoạt động của doanh nghiệp

Khu vực doanh nghiệp gặp khó khăn hơn trong quý I/2020 do chịu ảnh hưởng trực tiếp từ dịch Covid-19. Trong 3 tháng đầu năm, cả nước có 29,7 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước; 14,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 1,6%; đáng chú ý là số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn lên tới 18,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 26%. Tuy nhiên, kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy các doanh nghiệp kỳ vọng dịch Covid-19 sẽ kết thúc sớm nên dự báo tình hình sản xuất kinh doanh trong quý II khả quan hơn quý I.

a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[11]

Trong tháng 3/2020, cả nước có 12.272 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 131,4 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký là 86,2 nghìn lao động, tăng 33,9% về số doanh nghiệp, tăng 35,7% về vốn đăng ký và tăng 17,9% về số lao động so với tháng 2/2020[12]. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 10,7 tỷ đồng, tăng 1,3% so với tháng trước và tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng, cả nước còn có 3.423 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 5,7% so với tháng trước và giảm 29,8% so với cùng kỳ năm trước; 2.452 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 46,3% và tăng 78,6%; 2.785 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 27,5% và tăng 48%; 1.316 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 11% và tăng 37,1%; 5.918 doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, tăng 167,2% và tăng 59,9%.

Tính chung quý I/2020[13], cả nước có 29,7 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 351,4 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 243,7 nghìn lao động, tăng 4,4% về số doanh nghiệp, giảm 6,4% về vốn đăng ký và giảm 23,3% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong quý I/2020 đạt 11,8 tỷ đồng, giảm 10,4% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 552,4 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 9,1 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong quý I/2020 là 903,8 nghìn tỷ đồng, giảm 17,7% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có 14,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 1,6% so với quý I/2019, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong quý I/2020 lên 44,5 nghìn doanh nghiệp, trung bình mỗi tháng có 14,8 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

Theo khu vực kinh tế, quý I/2020 có 426 doanh nghiệp thành lập mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước; 8,1 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng, tăng 4,2%; 21,2 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ, tăng 4,5%. Một số ngành, lĩnh vực hoạt động có số doanh nghiệp thành lập mới tăng: bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có 10.015 doanh nghiệp, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2019; xây dựng 3.941 doanh nghiệp, tăng 3,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo 3.685 doanh nghiệp, tăng 2%; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác 2.788 doanh nghiệp, tăng 17,5%; vận tải, kho bãi 1.289 doanh nghiệp, tăng 1,3%; thông tin và truyền thông 932 doanh nghiệp, tăng 15,5%; sản xuất phân phối điện, nước, gas 341 doanh nghiệp, tăng 39,8%; tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 316 doanh nghiệp, tăng 9%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 191 doanh nghiệp, tăng 2,1%; khai khoáng 143 doanh nghiệp, tăng 11,7%. Có 6 lĩnh vực có số doanh nghiệp thành lập mới giảm so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác 1.672 doanh nghiệp, giảm 0,4%; kinh doanh bất động sản 1.363 doanh nghiệp, giảm 12%; dịch vụ lưu trú và ăn uống 1.281 doanh nghiệp, giảm 1%; giáo dục và đào tạo 833 doanh nghiệp, giảm 2,2%; nghệ thuật, vui chơi, giải trí 220 doanh nghiệp, giảm 22,5%; hoạt động dịch vụ khác 274 doanh nghiệp, giảm 12,2%.

Trong quý I/2020, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 18,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 26% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể là 12,2 nghìn doanh nghiệp, giảm 20,6%, trong đó có 2.629 doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; 4.343 doanh nghiệp đăng thông báo giải thể và 5.206 doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể với cơ quan thuế.

Trong quý I/2020 có 4,1 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tương đương với cùng kỳ năm trước, trong đó có gần 3,7 nghìn doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, giảm 1,3%; 62 doanh nghiệp có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng, tăng 21,6%. Doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực: bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có 1,5 nghìn doanh nghiệp; công nghiệp chế biến, chế tạo có 488 doanh nghiệp; xây dựng có 353 doanh nghiệp; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác có 256 doanh nghiệp; dịch vụ lưu trú và ăn uống có 244 doanh nghiệp; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác có 241 doanh nghiệp; kinh doanh bất động sản có 218 doanh nghiệp; vận tải, kho bãi có 169 doanh nghiệp; giáo dục và đào tạo có 164 doanh nghiệp; thông tin và truyền thông có 162 doanh nghiệp. Trong quý I/2020, trên cả nước còn có 11,4 nghìn doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm trước.

b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2020 cho thấy: Có 20,9% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý I/2020 tốt hơn quý IV/2019; 42% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 37,1% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định[14]. Dự kiến quý II/2020 so với quý I/2020, có 38,8% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 25,9% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 35,3% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định. Trong đó, khu vực doanh nghiệp Nhà nước lạc quan nhất với 77,9% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý II/2020 tốt hơn và giữ ổn định so với quý I/2020; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lần lượt là 74% và 73,8%.

Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2020, có 55,8% số doanh nghiệp cho rằng khả năng cạnh tranh cao của hàng hóa trong nước là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; 48% số doanh nghiệp cho rằng do nhu cầu thị trường trong nước thấp; 31,3% số doanh nghiệp cho rằng thiếu nguyên, nhiên, vật liệu; 30,7% số doanh nghiệp cho rằng gặp khó khăn về tài chính; 28,5% số doanh nghiệp cho rằng không tuyển được lao động theo yêu cầu; 26,6% số doanh nghiệp cho rằng lãi suất vay vốn cao; 24,4% số doanh nghiệp cho rằng nhu cầu thị trường quốc tế thấp; 22,6% số doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu cao; 21,1% số doanh nghiệp cho rằng thiết bị công nghệ lạc hậu.

Về khối lượng sản xuất, có 22,7% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp quý I/2020 tăng so với quý IV/2019; 39,5% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm và 37,8% số doanh nghiệp cho rằng ổn định[15]. Xu hướng quý II/2020 so với quý I/2020, có 40,3% số doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng; 22,8% số doanh nghiệp dự báo giảm và 36,9% số doanh nghiệp dự báo ổn định.

Về đơn đặt hàng, có 19,8% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng quý I/2020 cao hơn quý IV/2019; 38,6% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng giảm và 41,6% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng ổn định[16]. Xu hướng quý II/2020 so với quý I/2020, có 36,7% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng tăng lên; 22,8% số doanh nghiệp dự kiến đơn hàng giảm và 40,5% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng ổn định.

Về đơn đặt hàng xuất khẩu, quý I/2020 so với quý IV/2019, có 17,9% số doanh nghiệp khẳng định số đơn hàng xuất khẩu mới cao hơn; 37,5% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới giảm và 44,6% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới ổn định. Xu hướng quý II/2020 so với quý I/2020, có 30,7% số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu mới; 23,7% số doanh nghiệp dự kiến giảm và 45,6% số doanh nghiệp dự kiến ổn định.

[1] Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhận định tăng trưởng toàn cầu sẽ thấp hơn nhiều so với mức 2,9% của năm 2019 và cho rằng khó dự đoán tăng trưởng toàn cầu sẽ giảm sâu đến mức nào trong năm 2020. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã hạ mức dự báo thấp hơn 0,5 điểm phần trăm so với dự báo hồi tháng 11/2019, xuống còn 2,4% cho tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2020. Ngân hàng Thế giới (WB) cũng dự báo mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020 chỉ đạt 2,4%, mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoàng tài chính toàn cầu 2008-2009.

[2] Tốc độ tăng GDP quý I các năm 2011-2020 lần lượt là: Năm 2011 tăng 5,90%; năm 2012 tăng 4,75%; năm 2013 tăng 4,76%; năm 2014 tăng 5,06%; năm 2015 tăng 6,12%; năm 2016 tăng 5,48%; năm 2017 tăng 5,15%; năm 2018 tăng 7,45%; năm 2019 tăng 6,82%; năm 2020 tăng 3,82%.

[3] Tốc độ tăng/giảm giá trị tăng thêm của ngành nông nghiệp quý I các năm 2011-2020 lần lượt là: Năm 2011 tăng 3,65%; năm 2012 tăng 2,66%; năm 2013 tăng 2,01%; năm 2014 tăng 2,03%; năm 2015 tăng 1,58%; năm 2016 giảm 2,69%; năm 2017 tăng 1,38%; năm 2018 tăng 3,97%; năm 2019 tăng 1,93%; năm 2020 giảm 1,17%.

[4] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I các năm 2011-2020 lần lượt là: Năm 2011 tăng 13,31%; năm 2012 tăng 8,74%; năm 2013 tăng 4,38%; năm 2014 tăng 5,97%; năm 2015 tăng 9,70%; năm 2016 tăng 8,94%; năm 2017 tăng 8,60%; năm 2018 tăng 14,30%; năm 2019 tăng 11,52%; năm 2020 tăng 7,12%.

[5] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của ngành xây dựng quý I các năm 2011-2020 lần lượt là: Năm 2011 tăng 0,35%; năm 2012 tăng 1,18%; năm 2013 tăng 4,76%; năm 2014 tăng 5,93%; năm 2015 tăng 5,60%; năm 2016 tăng 8,60%; năm 2017 tăng 7,60%; năm 2018 tăng 6,80%; năm 2019 tăng 6,68%; năm 2020 tăng 4,37%.

[6] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ quý I các năm 2011-2020 lần lượt là: Năm 2011 tăng 6,77%; năm 2012 tăng 5,95%; năm 2013 tăng 5,89%; năm 2014 tăng 5,90%; năm 2015 tăng 5,68%; năm 2016 tăng 5,98%; năm 2017 tăng 6,36%; năm 2018 tăng 6,65%; năm 2019 tăng 6,50%; năm 2020 tăng 3,27%.

[7] Hà Nội, Ninh Bình, Hòa Bình, Bắc Ninh và Hà Nam.

[8] Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Quảng Nam và Kon Tum.

[9] Tính đến ngày 15/3/2020, trị giá xuất khẩu cá da trơn sang thị trường Mỹ đạt 62,1 triệu USD, giảm 20,1% so với cùng kỳ năm trước; thị trường Trung Quốc đạt 52,8 triệu USD, giảm 44,7%; thị trường Anh đạt 11,5 triệu USD, giảm 34,1%, thị trường Đức đạt 6,2 triệu USD, giảm 24,6%.

[10] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I so với cùng kỳ năm trước giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: Năm 2016 tăng 8,94%; năm 2017 tăng 8,6%; năm 2018 tăng 14,3%; năm 2019 tăng 11,52%; năm 2020 tăng 7,12%.

[11] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

[12] So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp giảm 1,6%; số vốn đăng ký tăng 2,5%; số lao động đăng ký giảm 43,9%.

[13] Không tính 1 doanh nghiệp tại Hà Nội đăng ký thành lập mới thuộc lĩnh vực kinh doanh bất động sản trong tháng 1/2020 có vốn đăng ký 144 nghìn tỷ đồng.

[14] Chỉ số tương ứng của quý IV/2019: Có 46,7% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn quý trước; 17% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 36,3% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định.

[15] Chỉ số tương ứng của quý IV/2019: Có 48% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp tăng so với quý trước; 17,4% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm và 34,6% số doanh nghiệp cho rằng ổn định.

[16] Chỉ số tương ứng của quý IV/2019: Có 43,2% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng tăng so với quý trước; 16,7% số doanh nghiệp có đơn đăt hàng giảm và 40,1% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng ổn định.

Theo Tổng cục Thống kê
Số lượt đọc: 327
Thông báo