Sau giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam bước vào công cuộc xây dựng đất nước. Về đường lối kinh tế đối ngoại, Đại hội IV của Đảng đã khẳng định chủ trương "Thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa nước ta với tất cả các nước khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi, tích cực tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội". Thể chế hóa đường lối, chính sách kinh tế và đối ngoại của Đảng, ngày 18/4/1977, Chính phủ đã ban hành Điều lệ Đầu tư nước ngoài (ĐTNN), là văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước ta quy định các nguyên tắc cơ bản về ĐTNN tại Việt Nam. Tuy nhiên, do giai đoạn những năm 70, đầu những năm 80 chưa có khung pháp lý đồng bộ và nền kinh tế vẫn vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung nên Điều lệ này đã không đi vào cuộc sống[1].
Trong khu vực, nhiều nước đã thực hiện chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp sang công nghiệp, thu hút ĐTNN, mở cửa thị trường, thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư, nhờ đó đạt được nhiều thành công. Trong khi đó, những năm 1980-1986, tình hình kinh tế Việt Nam rất khó khăn. Lạm phát hàng năm tăng ở mức 400%, một phần do bao vây cấm vận kinh tế và phụ thuộc nặng nề vào viện trợ nước ngoài, cả nước thiếu lương thực và hàng tiêu dùng trầm trọng; các cơ sở sản xuất đình trệ.
Trước tình hình đó, tại Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 17/7/1984, Bộ Chính trị đã đề ra định hướng hợp tác kinh tế với nước ngoài. Tiếp đó, tháng 12/1986, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đã xác định mục tiêu xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và mở cửa hợp tác ĐTNN; trong đó xác định “phải có chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố Luật Đầu tư nước ngoài, cần có chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh”. Đây sự thay đổi lớn, mang tính bước ngoặt về nhận thức, quan điểm đối với ĐTNN, làm cơ sở để ban hành Luật ĐTNN năm 1987.
Trong 30 năm tiếp theo, Đảng ta đã kịp thời có các chỉ đạo, định hướng về ĐTNN tại các Nghị quyết Đại hội Đảng hoặc Hội nghị trung ương để có những điều chỉnh phương hướng, chính sách, pháp luật phù hợp với bối cảnh thế giới và đất nước trong từng thời kỳ. Quan điểm xuyên suốt của Đảng đối với ĐTNN là: (i) hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi; (ii) tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài đầu tư, kinh doanh; (iii) thống nhất từng bước chính sách, tạo mặt bằng pháp lý chung đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; (iv) kinh tế có vốn ĐTNN là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển; (v) kinh tế có vốn ĐTNN bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; (vi) gắn thu hút ĐTNN với giám sát quá trình thực thi, bảo đảm an ninh kinh tế, hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường.
Thực tiễn cho thấy ĐTNN gắn với quá trình 30 năm Đổi mới và có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy ba chuyển đổi cơ bản của nền kinh tế, đó là: (i) từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường, (ii) từ khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tập thể là chủ yếu sang kinh tế nhiều thành phần, trong đó khu vực kinh tế tư nhân và khu vực ĐTNN là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng và (iii) từ một nền kinh tế đóng cửa, bị bao vây, cấm vận sang mở cửa, hội nhập sâu rộng và toàn diện vào nền kinh tế thế giới.
Qua hơn 30 năm, các kết quả đạt được đã khẳng định tính đúng đắn của chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với ĐTNN; minh chứng cho các thành tựu đổi mới, hội nhập; nâng cao uy tín và vị thế đất nước. Cụ thể là: (i) ĐTNN là động lực quan trọng để Việt Nam từng bước phá bỏ thế bao vây cấm vận, hiện thực hoá chủ trương “là bạn với các nước” trong thời kỳ đầu Đổi mới; (ii) ĐTNN đã thực hiện vai trò người công binh mở đường, thực hiện thí điểm các chính sách về kinh tế thị trường, làm cơ sở tổng kết, đánh giá để áp dụng rộng rãi[2] trong bối cảnh hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, kinh nghiệm quản lý nhà nước về kinh tế thị trường chưa có; (iii) ĐTNN đã trở thành khu vực phát triển năng động, có đóng góp tích cực vào thành tựu tăng trưởng về: tỷ trọng vốn đầu tư thực hiện trong vốn đầu tư phát triển toàn xã hội[3], tỷ trọng trong GDP[4], mở rộng thị trường xuất khẩu, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và từng bước đưa Việt Nam tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu[5]; (iv) thực hiện chuyển giao công nghệ ở một số ngành, lĩnh vực và có tác động lan tỏa công nghệ nhất định tới khu vực doanh nghiệp trong nước như dầu khí, viễn thông, điện tử,...; (v) khơi dậy các nguồn lực đầu tư trong nước để cùng hợp tác, cùng phát triển; tạo liên kết giữa khu vực ĐTNN với khu vực trong nước, thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ; (vi) đóng góp đáng kể trong tổng thu ngân sách nhà nước[6]; (vii) tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, phát triển nguồn nhân lực và năng suất lao động của nền kinh tế[7]; (viii) góp phần thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với hệ thống luật pháp ngày càng minh bạch, phù hợp thông lệ quốc tế, môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, thuận lợi, khiến Việt Nam được đánh giá thuộc nhóm 12 quốc gia, vùng lãnh thổ là điểm đến đầu tư tiềm năng trong giai đoạn từ 2017 đến 2020[8]; (ix) góp phần nâng cao vị thế đất nước, thúc đẩy quan hệ ngoại giao kinh tế của Việt Nam với các đối tác song phương và đa phương sâu sắc hơn; và (x) ĐTNN là sản phẩm của đổi mới tư duy kinh tế của Đảng, nhưng chính ĐTNN cũng là động lực góp phần để thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; là nhân tố mới, đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự thành công của hoạt động hợp tác ĐTNN bao gồm: (i) Quyết sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong đổi mới, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; (ii) Nỗ lực tạo lập và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật đồng bộ, thống nhất, phù hợp nguyên tắc, chuẩn mực kinh tế thị trường và cam kết hội nhập; (iii) Định hướng đúng dòng vốn ĐTNN vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn mà Việt Nam có thế mạnh, nhằm gia tăng năng lực sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh, chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế và đẩy mạnh xuất khẩu; và (iv) Hài hòa về lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia, lợi ích của nhà đầu tư và lợi ích của cộng đồng trong hợp tác ĐTNN để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, hoạt động ĐTNN tại Việt Nam trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế cần phải giải quyết, nhằm thu hút ĐTNN hiệu quả hơn, thiết thực hơn, chủ động hơn, như: (i) thể chế, chính sách về ĐTNN tuy đã có nhiều cải cách nhưng vẫn chưa theo kịp yêu cầu phát triển; (ii) chất lượng, hiệu quả thu hút và quản lý ĐTNN chưa cao; số lượng dự án quy mô nhỏ, công nghệ thấp, thâm dụng lao động còn lớn; phân bố không đều; tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký còn thấp; (iii) liên kết, tương tác với các khu vực khác của nền kinh tế thiếu chặt chẽ, hiệu ứng lan tỏa về năng suất và công nghệ chưa cao; tỷ lệ nội địa hóa còn thấp; (iv) các hiện tượng chuyển giá, đầu tư “chui”, đầu tư “núp bóng” ngày càng tinh vi và có xu hướng gia tăng; (v) một số doanh nghiệp, dự án sử dụng lãng phí tài nguyên, đất đai, vi phạm chính sách pháp luật về lao động, tiền lương, thuế, bảo hiểm xã hội, môi trường...; (vi) nhiều vụ việc tranh chấp, khiếu kiện phức tạp; (vii) áp lực lên hạ tầng nhiều nơi gia tăng; thiếu hạ tầng văn hóa, xã hội cơ bản,...; (viii) công tác quản lý nhà nước về ĐTNN còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trung ương và địa phương. Tất cả những hạn chế, bất cập này đòi hỏi phải có các giải pháp đồng bộ, tổng thể để sớm khắc phục trong thời gian tới.
Vì vậy, việc lần đầu tiên chúng ta có một Nghị quyết chuyên đề của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác ĐTNN đến năm 2030 có một ý nghĩa rất quan trọng. Trong đó, đã định hướng chiến lược dài hạn đối với việc thu hút, quản lý và sử dụng ĐTNN hợp lý trong từng giai đoạn; đồng thời, xác định các mục tiêu cụ thể và giải pháp để triển khai đạt được các mục tiêu đặt ra, phù hợp với chiến lược phát triển của đất nước.
Chiến lược hợp tác ĐTNN thời gian tới được đúc rút trên cơ sở các bài học kinh nghiệm: Một là, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong thu hút và sử dụng ĐTNN, nguồn lực ngoài nước là quan trọng, nguồn lực trong nước là quyết định. Bài học này vẫn còn giữ nguyên giá trị. Hai là, hợp tác ĐTNN là xu thế tất yếu trong nền kinh tế toàn cầu có tính cạnh tranh cao giữa các quốc gia. ĐTNN chủ yếu là đầu tư tư nhân, theo cơ chế thị trường, do đó, quyền lựa chọn đầu tư trước hết thuộc nhà đầu tư, vì mục tiêu lợi nhuận. Tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn sẽ thu hút được cả nguồn vốn bên trong và bên ngoài. Các doanh nghiệp nội địa ngày một trưởng thành là nhân tố quan trọng để thu hút các dự án ĐTNN sử dụng công nghệ cao, tạo khả năng lan tỏa và chuyển giao công nghệ hiệu quả. Ba là, dòng vốn ĐTNN bị tác động lớn từ những biến động về địa chính trị, chủ trương của các nước lớn và những xu hướng vận động của kinh tế thế giới. Do đó, trong quá trình hợp tác ĐTNN đòi hỏi phải có chính sách ứng phó chủ động, toàn diện và tương đối ổn định trong trung và dài hạn; giải quyết linh hoạt, kịp thời, thỏa đáng yêu cầu của nhà đầu tư và doanh nghiệp ĐTNN; tháo gỡ khó khăn, coi khó khăn của họ cũng có trách nhiệm của mình. Bốn là, thu hút và sử dụng ĐTNN là thước đo chất lượng thể chế, năng lực của bộ máy quản lý nhà nước, trình độ quản trị quốc gia, ngành, lĩnh vực và địa phương. Chủ động và quyết liệt cải thiện chất lượng thể chế, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý ĐTNN là yếu tố quyết định thành công. Quốc gia nào có chất lượng thể chế tốt hơn, môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh hơn sẽ thu hút được nhiều ĐTNN hơn. Trong phạm vi một quốc gia, ngành, lĩnh vực, địa phương nào giải quyết tốt hai lực cản là bộ máy quản lý và đội ngũ công chức, viên chức thì ngành, lĩnh vực, địa phương đó sẽ thành công hơn trong thu hút ĐTNN. Năm là, việc xây dựng quan hệ đối tác bình đẳng, bền chặt, hiệu quả với nhà ĐTNN, cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc phát hiện, tháo gỡ những hạn chế, bất cập về chính sách, pháp luật ảnh hưởng đến hoạt động ĐTNN, từ đó củng cố niềm tin cho cộng đồng nhà đầu tư.
Từ đó, Nghị quyết 50-NQ/TW đã xác định quan điểm của Việt Nam về hợp tác ĐTNN trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với các khu vực kinh tế khác. Nhà nước tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhà đầu tư; bảo đảm hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp.
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách về ĐTNN phù hợp xu hướng phát triển, tiếp cận chuẩn mực tiên tiến quốc tế và hài hoà với các cam kết quốc tế, bảo đảm sự đồng bộ, nhất quán, công khai, minh bạch và tính cạnh tranh cao.
Thứ ba, chủ động thu hút, hợp tác ĐTNN có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Thứ tư, đa phương hoá, đa dạng hoá đối tác, hình thức đầu tư, đan xen lợi ích trong hợp tác ĐTNN và kết nối hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước, phù hợp với định hướng cơ cấu lại nền kinh tế và mục tiêu phát triển bền vững; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, an sinh, trật tự, an toàn xã hội và nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và phát huy sự năng động, sáng tạo của người dân và doanh nghiệp trong việc hoàn thiện, thực thi và giám sát việc thực hiện thể chế, chính sách về thu hút và hợp tác ĐTNN.
Từ các quan điểm nêu trên, Nghị quyết 50-NQ/TW đã đưa ra 07 nhóm giải pháp đồng bộ, hoàn thiện về: (i) thể chế, chính sách chung; (ii) thể chế, chính sách thu hút đầu tư; (iii) thể chế, chính sách nhằm bảo hộ và đề cao trách nhiệm của nhà đầu tư; (iv) thể chế chính sách quản lý, giám sát đầu tư; (v) đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư; (vi) nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về ĐTNN; (vii) tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đối với ĐTNN.
Theo đó, Việt Nam sẽ chuyển sang giai đoạn “hợp tác” ĐTNN, thể hiện sự bình đẳng, cùng có lợi, chủ động có định hướng hợp tác và đề cao trách nhiệm của nhà đầu tư. Để triển khai các quan điểm chỉ đạo và giải pháp tại Nghị quyết 50-NQ/TW của Bộ Chính trị, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 27/4/2020 về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 50-NQ/TW. Trong đó, có 70 nhiệm vụ được phân công cho các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thực hiện trong hai năm 2020-2021. Nhiều giải pháp liên quan tới quản lý, hợp tác ĐTNN thuộc nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã được chủ động nghiên cứu, xây dựng và thể chế hóa ngay tại Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 được Quốc Hội thông qua ngày 17/6/2020, làm cơ sở quan trọng cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của hợp tác ĐTNN; cũng như hiệu lực của công tác quản lý nhà nước đối với ĐTNN thời gian tới.
Việc hợp tác ĐTNN sẽ được thực hiện theo hướng: (i) Thu hút có chọn lọc, có chất lượng; (ii) có cơ chế đánh giá an ninh và tiến hành rà soát an ninh đối với các dự án, hoạt động ĐTNN; (iii) thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia, các dự án lớn, trọng điểm quốc gia, dự án công nghệ cao,...; (iv) cân đối, hợp lý giữa các vùng, miền; theo đúng định hướng, quy hoạch và yêu cầu phát triển; (v) đa dạng hoá và phát huy có hiệu quả mô hình hợp tác công - tư (PPP) vào đầu tư cơ sở hạ tầng, hình thức mua lại và sáp nhập (M&A); (vi) thực hiện thí điểm đối với các phương thức đầu tư, mô hình kinh doanh mới để tận dụng cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư sẽ được đổi mới: (i) theo kết quả đầu ra như: mức độ tham gia chuỗi giá trị, giá trị gia tăng nội địa, hợp phần sử dụng công nghệ cao, nghiên cứu và phát triển, đổi mới sáng tạo, trách nhiệm xã hội...; (ii) khuyến khích bổ sung đối với các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, thực hiện tốt cam kết; (iii) ưu đãi đầu tư gắn với việc đáp ứng các điều kiện, cam kết cụ thể và cơ chế hậu kiểm, yêu cầu bồi hoàn các ưu đãi khi vi phạm các cam kết.
Chủ trương thúc đẩy liên kết, phát triển công nghiệp hỗ trợ sẽ được triển khai theo hướng nâng cấp các quy định hiện hành để khuyến khích, ưu đãi thoả đáng, tăng liên kết giữa ĐTNN và đầu tư trong nước; phát triển cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị, góp phần nâng cao giá trị gia tăng nội địa, sức cạnh tranh của sản phẩm và vị trí quốc gia. Hỗ trợ doanh nghiệp trong nước kết nối với doanh nghiệp ĐTNN, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ, dần tiến tới tự chủ công nghệ và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về sản phẩm, bảo vệ môi trường, tài nguyên và tiết kiệm năng lượng được nâng cao phù hợp với tiêu chuẩn của khu vực và thế giới.
Công tác xúc tiến đầu tư được đổi mới theo hướng: (i) tăng cường phối hợp, liên kết giữa các cơ quan, các cấp, các ngành; giữa xúc tiến đầu tư - thương mại - du lịch; (ii) xúc tiến đầu tư có mục tiêu, trọng tâm, trọng điểm, gắn với các tiêu chí hợp tác đầu tư mới; trực tiếp đàm phán với các Tập đoàn lớn, đối tác chiến lược; (iii) đa dạng hoá các hoạt động và phương thức xúc tiến đầu tư; chú trọng xúc tiến đầu tư tại chỗ; hỗ trợ các nhà đầu tư hiện hữu kinh doanh có hiệu quả, thuận lợi để tạo hình ảnh tốt thu hút các nhà đầu tư mới vào Việt Nam; (iv) sử dụng các thành tựu của cuộc CMCN 4.0, kinh tế số, dữ liệu lớn (big data), hệ thống thông tin toàn cầu,... vào hoạt động XTĐT để tăng hiệu quả, giảm chi phí; (v) kết hợp XTĐT trong các Đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước; công tác chính trị - ngoại giao kết hợp với kinh tế; (vi) rà soát, cơ cấu lại hệ thống các cơ quan xúc tiến đầu tư hiện có (không thành lập mới) theo hướng chuyên nghiệp, độc lập, không chồng chéo, không trùng lặp với các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài; (vii) Đội ngũ cán bộ XTĐT phải chuyên nghiệp, năng động, bám đuổi công việc từ khâu định hướng, quảng bá, kết nối, đàm phán, ký kết tới tổ chức thực hiện.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài tiếp tục được chấn chỉnh. Nghiêm cấm việc cấp, điều chỉnh, quản lý, đàm phán dự án đầu tư nước ngoài, ban hành quy định ưu đãi, hỗ trợ đầu tư... trái thẩm quyền, trái quy định pháp luật. Công tác quản lý, triển khai dự án đầu tư; phải bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường, phù hợp quy hoạch, theo đúng các tiêu chí lựa chọn, sàng lọc dự án... Bảo đảm chặt chẽ về quy trình, thủ tục cấp, điều chỉnh, thu hồi, chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư nước ngoài theo đúng quy định pháp luật.
Bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài được kiện toàn theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và thống nhất một đầu mối tại các bộ, ngành, địa phương, đáp ứng yêu cầu quản lý liên ngành, liên vùng tại địa phương và trong phạm vi cả nước. Đẩy mạnh phân công, phân cấp, phối hợp giữa các bộ, ngành và các địa phương gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát.
Việc triển khai và thực hiện Nghị quyết 50/NQ-TW trong bối cảnh hiện nay được đánh giá là đúng lúc; bắt kịp làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam[9]. Với sự tác động tích cực của dịch chuyển đầu tư sang Việt Nam để: (i) hưởng lợi từ các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA); (ii) tránh mức thuế cao do xung đột thương mại giữa các nền kinh tế lớn; và (iii) tránh lệ thuộc, phụ thuộc chuỗi cung ứng, sản xuất vào một quốc gia, địa điểm do đại dịch Covid-19, Việt Nam hiện đang được các nhà đầu tư đánh giá là điểm đến đầu tư thông thoáng, minh bạch, an toàn và cạnh tranh.
Bên cạnh các điều chỉnh chỉnh sách thuận lợi, Việt Nam cũng sẽ có các chính sách để chọn lọc, không tiếp nhận các dự án ĐTNN kém chất lượng. Có một số ý kiến lo ngại các biện pháp sàng lọc đầu tư có thể gây cản trở, khiến nhà đầu tư nản lòng. Tuy nhiên, đã đến lúc cả nhà nước và nhà đầu tư cần thống nhất, đây là cuộc chơi sòng phẳng và cùng có lợi. Cùng với việc được bảo hộ, các nhà đầu tư cũng phải tự đề cao trách nhiệm của chính mình. Các “hàng rào” được dựng lên cũng chỉ để hạn chế những nhà đầu tư kém chất lượng. Khi ấy, môi trường đầu tư, kinh doanh sẽ minh bạch và lành mạnh hơn, dành nhiều cơ hội hơn cho các nhà đầu tư nghiêm túc, bài bản. Đây cũng chính là điều mà các nhà đầu tư chân chính chờ đợi. Vấn đề quan trọng nhất là tổ chức thể chế hóa và thực thi hiệu quả Nghị quyết, để Việt Nam sớm đón được dòng vốn đầu tư có chất lượng hơn, tác động tích hơn hơn vào phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam./.
[1] Không có Giấy phép đầu tư nào được cấp theo trình tự, thủ tục được quy định trong Điều lệ này. Một số hoạt động ĐTNN vào thời điểm này chịu sự điều chỉnh của các Hiệp định hợp tác đầu tư với Liên Xô và các nước XHCN trước đây. VD: Hiệp định về hợp tác thăm dò địa chất và khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam ngày 3/7/1980; Hiệp định về việc thành lập xí nghiệp liên doanh Việt - Xô thăm dò địa chất và khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam ngày 19/6/1981 với Chính phủ Liên bang Cộng hòa XHCN Xô viết.
[2] Trên cơ sở tổng kết quá trình thực hiện Luật ĐTNN, các Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân lần lượt được Quốc Hội ban hành vào năm 1990.
[3] Tăng từ 17,1% giai đoạn 1997-2005 lên 23,6% giai đoạn 2016-2020.
[4] Tăng dần từ 2,1% năm 1989 lên 21,8% năm 2017 và khoảng 20,7% năm 2019
[5] Khu vực ĐTNN xuất siêu hơn 36,5 tỷ USD (kể cả dầu thô) trong năm 2019, bù đắp 25,4 tỷ USD thâm hụt thương mại của khu vực trong nước, giúp cán cân thương mại thặng dư 11,1 tỷ USD; sản phẩm của Việt Nam đã xuất khẩu đến hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, gấp hơn 4 lần so với năm 1988.
[6] với tỷ trọng25,8% tổng thu ngân sách nhà nước năm 2019
[7] với khoảng 4,51 triệu lao động trực tiếp và 5-6 triệu lao động gián tiếp, năng suất lao động gấp 2,7 lần năng suất chung của nền kinh tế
[8] Đánh giá của Hội nghị về Thương mại và phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD).
[9] Làn sóng thứ nhất là giai đoạn 1995-1995 sau khi Hoa Kỳ dỡ bỏ cấm vận với Việt Nam.
Làn sóng thứ hai là giai đoạn 2007-2008 sau khi Việt Nam gia nhập WTO.