BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
CỤC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Chủ Nhật, 22/12/2024
Tin dự án
Giải pháp phục hồi nhanh nền kinh tế sau khi kết thúc dịch Covid 19
Thứ Hai, 25/01/2021 03:29

Theo một số Hiệp hội doanh nghiệp và giới nghiên cứu nhận định: "Cho dù các hoạt động kinh tế bị ảnh hưởng suy giảm và rủi ro từ Covid-19 sẵn sàng bùng phát bất kỳ lúc nào, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh, ổn định nhất trong châu Á năm 2020". Việc số lượng lớn các Hiệp định thương mại song phương/đa phương mà Việt Nam đã tham gia hứa hẹn khả năng tiếp cận thị trường, giúp nền kinh tế tăng trưởng trở lại.

1. Một số nhận định về tác động đến tăng trưởng kinh tế   

       Kinh tế Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới đều bị tác động và giảm mạnh vì đại dịch Covid-19, với GDP tăng trưởng Quý I chỉ đạt 3,8% (so với 6,8% cùng kỳ năm 2019), trong đó khu vực dịch vụ bị ảnh hưởng nặng nề nhất giảm chỉ còn 3,2%. Tuy nhiên, về cơ bản nền tảng kinh tế Việt Nam vẫn được duy trì, các động lực phát triển chính là sản xuất công nghiệp, xuất khẩu, nông nghiệp vẫn có tăng trưởng mặc dù cũng gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng từ Covid-19 cũng như các biện pháp phòng dịch quyết liệt của Chính phủ.

       Theo một số Hiệp hội doanh nghiệp và giới nghiên cứu nhận định: "Cho dù các hoạt động kinh tế bị ảnh hưởng suy giảm và rủi ro từ Covid-19 sẵn sàng bùng phát bất kỳ lúc nào, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh, ổn định nhất trong châu Á năm 2020". Việc số lượng lớn các Hiệp định thương mại song phương/đa phương mà Việt Nam đã tham gia hứa hẹn khả năng tiếp cận thị trường, giúp nền kinh tế tăng trưởng trở lại.

       Ngoài ra, ADB cũng nhận định Việt Nam sẽ hưởng lợi từ việc Trung Quốc bước đầu khống chế thành công Covid-19 và việc phục hồi tăng trưởng của nước này sẽ góp phần khôi phục chuỗi cung ứng sản xuất cho toàn cầu.

       Ngân hàng thế giới (WB) cũng nhận định mặc dù chịu tác động không nhỏ từ thị trường tài chính toàn cầu, nhưng với những dư địa chính sách đã có, Việt Nam có đủ điều kiện để vượt qua khủng hoảng đang diễn ra. Điều này không phải là không có cơ sở khi 2 tháng đầu năm, xuất khẩu tăng trưởng 8%, dòng vốn FDI vẫn đổ vào hơn 2,5 tỷ USD. WB cũng nhận định khác với Việt Nam, các quốc gia Đông Nam Á và Thái Bình Dương khác thì lại phải đang đối mặt với nhiều tình huống bất lợi và đối mặt với viễn cảnh suy thoái trong trung hạn.

       Tuy nhiên, theo một số chuyên gia kinh tế nhận định nền kinh tế thế giới sẽ sớm phải đối mặt với "cú sốc thứ 3" trong nửa cuối năm 2020 trở đi. Theo các chuyên gia này, cú sốc thứ 1 là tác động của chiến tranh thương mại, cú sốc thứ 2 là ảnh hưởng nghiêm trọng của Covid-19, và "cú sốc thứ 3" sẽ là tình trạng suy thoái nghiêm trọng tại châu Âu và nhiều nước châu Á, đặc biệt là những nước đang phát triển. Hậu quả mà theo như Viện Tài chính quốc tế (IIF) sẽ là làn sóng rút vốn (bao gồm cả thị trường đầu tư gián tiếp(tài chính, chứng khoán) và đầu tư trực tiếp FDI).

2. Một số giải pháp các nền kinh tế lớn đang thực hiện

Các nước đều có các biện pháp hỗ trợ các nhà đầu tư và nền kinh tế. Đặc biệt, các nước G20 và G7 đã đưa ra các tuyên bố hỗ trợ đầu tư và chuỗi giá trị toàn cầu.

- Ngày 16/3/2020, các lãnh đạo G7 đã công bố một tuyên bố về COVID 19, trong đó họ bày tỏ sẽ hỗ trợ cho thương mại và đầu tư toàn cầu, tuyên bố huy động đầy đủ các công cụ, bao gồm các biện pháp tài chính và tiền tệ để hỗ trợ ngay lập tức và nhiều nhất cho công nhân, công ty và các ngành bị ảnh hưởng nhất.

- Ngày 26/32020, lãnh đạo G20 đã hội nghị thượng đỉnh bất thường trực tuyến về Covid-19, cam kết làm bất cứ điều gì cần thiết và sử dụng tất cả các công cụ chính sách có sẵn để giảm thiểu thiệt hại kinh tế và xã hội từ đại dịch để khôi phục tăng trưởng toàn cầu, duy trì sự ổn định của thị trường và tăng cường khả năng phục hồi sau đại dịch[1].

- Tiếp đó, ngày 30/3/2020, các Bộ trưởng Thương mại và Đầu tư G20 đã ban hành một tuyên bố công nhận sự liên quan đến tầm quan trọng của đầu tư quốc tế. Họ cam kết tìm cách giảm thiểu tác động của khủng hoảng đối với thương mại và đầu tư quốc tế, để cùng nhau tạo ra một môi trường đầu tư và thương mại tự do, công bằng, không phân biệt đối xử, minh bạch và có thể dự đoán được, và để giữ cho thị trường mở.

- Đồng thời, ngày 31/3/2020, các Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương G20 đã họp và thống nhất lộ trình thực hiện các cam kết tại Hội nghị Cấp cao Lãnh đạo G20 ngày 26/3/2020.

- Chính phủ Hoa Kỳ đã dành 500 tỷ USD để cho vay, bảo lãnh nợ hoặc đầu tư kinh doanh ở các doanh nghiệp chịu thiệt hại bởi khủng hoảng; Tài trợ 25 tỷ USD cho các hãng hàng không và 4 tỷ USD cho các công ty vận tải hàng hóa để trả lương và lợi ích cho người lao động. Ngoài ra, cấp 17 tỷ USD cho các khoản vay và bảo lãnh đối với các doanh nghiệp chưa xác định nhưng được coi là quan trọng để duy trì an ninh quốc gia. Cấp 350 tỷ USD cho các doanh nghiệp nhỏ vay để trả lương và các lợi ích của người lao động

3. Đề xuất giải pháp trong trong thời gian chưa kết thúc dịch

- Tính đến các biện pháp hỗ trợ kinh tế khi tăng trưởng có khả năng chậm lại do tình hình dịch bệnh nghiêm trọng. Thúc đẩy đầu tư công, tranh thủ các nguồn vốn tài trợ, vốn viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế WB/IMF. Đây là các nguồn vốn có thể giải ngân ngay lập tức với mục tiêu củng cố hệ thống y tế, hỗ trợ các gói kích thích tài khóa và thanh khoản.

- Hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết các khó khăn vướng mắc do dịch bệnh để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh: vấn đề nhập cảnh của lao động nước ngoài, cấp mới và gia hạn giấy phép lao động, đẩy nhanh thông quan hàng hóa, cho vay với lãi xuất ưu đãi, gia hạn trả nợ, miễn giảm tiền thuê đất, tạm dừng các cuộc thanh tra, kiểm tra…..

- Các cơ quan quản lý FDI chủ động và tích cực giải quyết nhanh chóng các thủ tục liên quan đến hoạt động đầu tư, tạo sự thuận lợi và niềm tin cho doanh nghiệp FDI; Chính phủ cần quán triệt chính quyền các tỉnh/thành phố hỗ trợ an toàn và tốt nhất cho các doanh nghiệp FDI, các nhà đầu tư và chuyên gia nước ngoài đến từ các nước đang có dịch bệnh Covid-19.

- Xem xét thành lập Quỹ ổn định kinh tế để hỗ trợ các DN hoạt động trong các ngành, lĩnh vực bị thiệt hại nặng do đại dịch.

- Hỗ trợ cho các Hiệp hội ngành nghề việc quảng bá sản phẩm, hình ảnh của ngành tại các hội chợ, triển lãm nước ngoài. Tích cực ứng dụng các phương pháp marketing online hiệu quả để phục vụ việc quảng bá sản phẩm trên các kênh thông tin chính thống, kể cả các kênh thông tin của Chính phủ.

- Kiên trì triển khai Kế hoạch hành động hướng tới quan hệ kinh tế, đầu tư, thương mại hài hòa bền vững với các đối tác song phương, các đối tác đầu tư chiến lược.

- Có phương án ưu đãi tài chính, hỗ trợ vốn một cách thiết thực cho các doanh nghiệp (đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ - nhóm đối tượng dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của dịch bệnh) đẩy mạnh đầu tư sản xuất, cung ứng các sản phẩm hàng hóa trung gian, dịch vụ logistic để các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp FDI yên tâm tiếp tục đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.

- Chủ động có các động thái quan tâm đặc biệt đến các doanh nghiệp, các đối tác đầu tư FDI lớn của Việt Nam (Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ…), các công ty đa quốc gia (như Samsung, LG, Dell, Apple...) để duy trì dòng vốn đầu tư hiện hữu cũng như gợi mở, thúc đẩy cho dòng vốn đầu tư mới của các đối tác này vào Việt Nam trong bối cảnh dịch  Covid-19 đang diễn biến phức tạp trên quy mô toàn cầu. Giải quyết nhanh chóng các thủ tục liên quan đến hoạt động đầu tư, tạo sự thuận lợi và niềm tin cho doanh nghiệp FDI; quán triệt chính quyền các tỉnh/thành phố hỗ trợ an toàn và tốt nhất cho các doanh nghiệp FDI, các nhà đầu tư và chuyên gia nước ngoài đến từ các nước đang có dịch bệnh Covid-19.

4. Đề xuất giải pháp sau khi dịch kết thúc

4.1. Các giải pháp chung

- Qua dịch Covid-19, cho thấy tình trạng kinh tế nước ta phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc và các nền kinh tế ở Đông Bắc Á ở cả đầu ra lẫn đầu vào của nhiều ngành kinh tế và các chuỗi giá trị toàn cầu. Do đó, về mặt chiến lược dài hạn, cần đặc biệt coi trọng thị trường trong nước, giảm tình trạng phụ thuộc, đồng thời đa dạng hóa thị trường quốc tế, định hình lại các chuỗi giá trị thông qua tái cấu trúc nền kinh tế, tăng năng lực cạnh tranh và khả năng chống chịu, giảm sự phụ thuộc quá lớn vào bất kỳ thị trường nào. Để làm được điều này, cần phải tận dụng và phát huy tối đa các lợi thế của quá trình thực thi CPTPP, EVFTA và các FTA khác… , thúc đẩy tăng tỷ lệ nội địa hóa và nguồn cung ứng từ các thị trường tiềm năng ngoài Trung Quốc và Đông Bắc Á.

- Hoàn thiện chuỗi cung ứng thay cho Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu (nhất là các ngành công nghiệp phụ trợ, linh kiện điện, điện tử, các ngành công nghệ cao mà Việt Nam có ưu thế).

- Bám sát tình hình thị trường, chuẩn bị sẵn nguồn lực để triển khai xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch mạnh, hiệu quả ngay khi các thị trường có dấu hiệu phục hồi. Phía Chính phủ Mỹ cũng có chương trình thúc đẩy dự án công nghệ cao vào Việt Nam vào nửa sau của năm 2020 khi dịch bệnh đã chặn được.

- Tăng cường kích cầu thị trường nội địa: Trong bối cảnh nhiều thị trường xuất khẩu trọng điểm như Âu, Mỹ đang bị ảnh hưởng nặng nề, sức mua kém, việc thúc đẩy thị trường trong nước là chính sách phù hợp và được nhiều quốc gia (trong đó có Trung Quốc đại lục) đang áp dụng triệt để.

- Dịch COVID-19 làm nảy sinh nhu cầu về việc thay đổi quy trình làm việc của các doanh nghiệp sang trực tuyến, số hóa và tự động hóa do hiệu quả hơn và giảm chi phí. Vấn đề này rất phù hợp nếu dịch tiếp tục làm gián đoạn các hoạt động bình thường và rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các DN khi đại dịch kết thúc.

- Đại dịch Covid-19 chắc chắn sẽ thúc đẩy quá trình dịch chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi TQ nhanh hơn. Việt Nam và các nước Đông Nam Á được ưu tiên lựa chọn trong quá trình này. Nhưng theo đánh giá, để tận dụng được cơ hội, Việt Nam cần giải quyết 04 "điểm nghẽn" sau: (i) sự đa dạng và ổn định của các yếu tố đầu vào sản xuất (công nghiệp hỗ trợ, điện,...)[2]; (ii) lao động có kỹ năng; (iii) hệ thống hạ tầng phục vụ cho sự luân chuyển và lưu thông hàng hóa toàn cầu cần phải được giải quyết; (iv) hệ thống quy định thuế, tư pháp thân thiện với môi trường kinh doanh, theo chuẩn mực quốc tế.

4.2. Các giải pháp đối với FDI

- Tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp FDI để phục hổi hoạt động sản xuất kinh doanh sau dịch:

+ Hỗ trợ các DN trong việc tiếp nhận lại các lao động, cung cấp các dịch vụ kiểm tra y tế, vệ sinh phòng dịch để các DN yên tâm quay trở lại sản xuất kinh doanh.

+ Tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp về tín dụng, gia hạn thời gian trả nợ, tiền thuê đất một thời gian nhất định sau khi dịch kết thúc.

- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống Luật pháp, chính sách liên quan đến đầu tư theo hướng minh bạch, phù hợp với thông lệ và cam kết quốc tế để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đón đầu, tận dụng làn sóng chuyển dịch đầu tư sang Việt Nam, cụ thể: Hoàn thiện trình quốc hội thông qua Luật Đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật PPP và các Nghị định liên quan. Lồng ghép, đưa vào dự thảo Luật đầu tư sửa đổi các nội dung liên quan để tăng cường kiểm soát hoạt động ĐTNN, thu hút đầu tư có chọn lọc, quy định về giám định vốn nhằm chống chuyển giá, gian lận thuế, chống hiện tượng đầu tư chui, đầu tư núp bóng, lợi dụng xuất xứ hàng hóa.

- Tích cực triển khai chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 50/NQ-TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.

- Tích cực tăng tốc cải thiện thủ tục hành chính, cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, người tài để tận dụng Cách mạng Công nghệ 4.0 làm động lực tăng trưởng đất nước.    

- Chủ động, kịp thời trong công tác xúc tiến đầu tư để đón đầu làn sóng chuyển dịch đầu tư sang Việt Nam: chủ động và khẩn trương trong việc tiếp cận các doanh nghiệp đang có mong muốn mở rộng đầu tư ra ngoài Trung Quốc thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao, xúc tiến đầu tư-thương mại nước ngoài tại Việt Nam và Việt Nam tại nước ngoài, các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài như AmCham, EuroCham, JETRO, JCCI, KOTRA,….. Tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư – thương mại ở các cấp, tại các quốc gia, các thị trường trọng điểm (Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Trung Quốc, Mỹ, Châu Âu). Tập trung vào các ngành, lĩnh vực có khả năng dịch chuyển cao do tác động của tranh chấp thương mại Mỹ - Trung bao gồm: (i) điện, điện tử, thiết bị viễn thông, máy tính và linh kiện; (ii) thiết bị y tế; (iii) dệt may, da giầy, hàng tiêu dùng; (iv) công nghiệp hỗ trợ các ngành ô-tô, hàng hải, hàng không; (v) năng lượng tái tạo và thiết bị năng lượng.

 



[1] G20 cam kết làm mọi cách để khắc phục đại dịch (cùng với WHO, IMF, WB, UN và các tổ chức quốc tế khác), nhằm: (i) Bảo vệ tính mạng người dân; (ii) Bảo vệ việc làm và thu nhập của người dân; (iii) Khôi phục sự tự tin, duy trì sự ổn định tài chính, phục hồi tăng trưởng và phục hồi mạnh mẽ hơn; (iv) Giảm thiểu sự gián đoạn đối với thương mại và chuỗi cung ứng toàn cầu; (v) Cung cấp trợ giúp cho tất cả các quốc gia cần hỗ trợ; (vi) Phối hợp về các biện pháp y tế và tài chính công cộng.

 

Theo Cục Đầu tư nước ngoài
Số lượt đọc: 2742
Thông báo