BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
CỤC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Thứ Ba, 24/12/2024
Vùng, Thông tin
Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2020 (phần 1)
Thứ Bảy, 29/08/2020 09:24
Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2020 (phần 1)

Tổng cục Thống kê đã có báo cáo về Tình hình kinh tế xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2020.

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào gieo cấy, chăm sóc lúa mùa và thu hoạch lúa, hoa màu vụ hè thu. Chăn nuôi gia cầm phát triển tốt. Chăn nuôi lợn đang dần khôi phục sau dịch tả lợn châu Phi nhưng tốc độ tái đàn còn chậm do giá con giống vẫn ở mức cao. Sản xuất lâm nghiệp trong tháng nhìn chung ổn định. Ngành thủy sản tiếp tục gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19 làm nhu cầu tiêu thụ sản phẩm giảm.

a) Nông nghiệp

Tính đến ngày 15/8, cả nước gieo cấy được 1.447,2 nghìn ha lúa mùa, bằng 99% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 1.047,2 nghìn ha, bằng 98,5%; các địa phương phía Nam đạt 400 nghìn ha, bằng 100,3%. Diện tích gieo cấy lúa mùa ở các địa phương phía Bắc giảm so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do đầu vụ nắng nóng kéo dài và do chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ. Trong tháng, mặc dù lượng mưa lớn, tập trung nhưng các địa phương đã chủ động bơm, tiêu nước đệm kịp thời nên không gây ngập úng cục bộ, cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt. Tuy nhiên, trên các trà lúa đang bắt đầu xuất hiện rải rác một số loại sâu bệnh gây hại nhẹ như sâu cuốn lá nhỏ, khô vằn. Các địa phương cần tăng cường công tác phòng trừ sâu bệnh, không để lây lan trên diện rộng ảnh hưởng đến kết quả sản xuất toàn vụ.

Vụ lúa hè thu năm nay cả nước gieo cấy được 1.945,4 nghìn ha, giảm 64,1 nghìn ha so với vụ hè thu năm trước do ảnh hưởng của hạn hán và xâm nhập mặn; riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long giảm 44,1 nghìn ha. Tính đến trung tuần tháng Tám, cả nước thu hoạch được 942,4 nghìn ha lúa hè thu, chiếm 48,4% diện tích gieo cấy và bằng 88,8% cùng kỳ năm trước, tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long với 875,1 nghìn ha, chiếm 57,4% diện tích xuống giống và bằng 87,7% cùng kỳ năm trước. Theo báo cáo của các địa phương, lúa hè thu năm nay được mùa với năng suất ước tính đạt 55,3 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha so với vụ hè thu năm 2019 nhưng do diện tích gieo cấy giảm nên sản lượng toàn vụ ước tính đạt 10,76 triệu tấn, giảm 184,8 nghìn tấn. Một số địa phương sản lượng giảm nhiều so với vụ hè thu năm trước do diện tích giảm là: Tiền Giang giảm 89,3 nghìn tấn; Đồng Tháp giảm 34,8 nghìn tấn; Vĩnh Long giảm 13,8 nghìn tấn; Cần Thơ giảm 12,8 nghìn tấn.

Đến trung tuần tháng Tám, vùng Đồng bằng sông Cửu Long xuống giống được 355,7 nghìn ha lúa thu đông, bằng 99,2% cùng kỳ năm trước. Năm nay có tháng nhuận và do ảnh hưởng xâm nhập mặn nên tiến độ xuống giống chậm hơn cùng kỳ năm trước. Hiện nay, lúa thu đông chủ yếu ở giai đoạn làm đòng đến chắc xanh, sinh trưởng và phát triển khá tốt. Để hạn chế ảnh hưởng của lũ, giảm tỷ lệ hao hụt xuống mức thấp nhất, các địa phương cần tăng cường khuyến cáo người dân chỉ nên sản xuất lúa thu đông ở những nơi có hệ thống thủy lợi nội đồng hoàn chỉnh, chủ động ngăn được lũ hoặc tiêu thoát nước tốt, đồng thời thực hiện tốt các biện pháp phòng trừ sâu bệnh.

Tính đến ngày 15/8, các địa phương trên cả nước gieo trồng được 833,6 nghìn ha ngô, bằng 97,4% cùng kỳ năm trước; 94,1 nghìn ha khoai lang, bằng 93,2%; 153,4 nghìn ha lạc, bằng 96,8%; 37,1 nghìn ha đậu tương, bằng 92,8%; 914,5 nghìn ha rau đậu, bằng 98,5%.

Chăn nuôi trâu, bò trong tháng nhìn chung ổn định. Chăn nuôi gia cầm phát triển khá. Chăn nuôi lợn đang dần được khôi phục sau dịch tả lợn châu Phi nhưng công tác tái đàn còn chậm do giá con giống vẫn ở mức cao (khoảng 2,5 triệu đồng/con đến hơn 3,0 triệu đồng/con), các hộ chăn nuôi không có đủ nguồn lực để đầu tư tái đàn sau thời gian dài bị thiệt hại vì dịch bệnh, việc tái đàn chủ yếu ở các cơ sở chăn nuôi lớn. Ước tính trong tháng Tám, tổng số trâu của cả nước giảm 2% so với cùng thời điểm năm 2019; tổng số bò tăng 3%; tổng số lợn giảm 4%; tổng số gia cầm tăng 4,5%.

Tính đến ngày 25/8/2020, cả nước không còn dịch tai xanh; dịch cúm gia cầm còn ở Kon Tum, Đắk Lắk, Khánh Hòa; dịch lở mồm long móng còn ở Cao Bằng, Quảng Trị, Kon Tum, Đồng Nai và dịch tả lợn châu Phi còn ở 181 xã của 19 địa phương[1] chưa qua 21 ngày.

b) Lâm nghiệp

Trong tháng Tám, hoạt động sản xuất lâm nghiệp chủ yếu tập trung cho công tác khai thác gỗ, chăm sóc rừng trồng và chuẩn bị cho trồng rừng vụ Thu. Diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 17,5 nghìn ha, giảm 16,7% so với cùng kỳ năm trước do kế hoạch trồng rừng năm 2020 giảm ở hầu hết các tỉnh và nắng nóng vẫn tiếp diễn ở các tỉnh miền Trung; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 7,3 triệu cây, tăng 3,1%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1.505 nghìn m3, tăng 1,4%; sản lượng củi khai thác đạt 1,5 triệu ste, tăng 0,7%.

Tính chung 8 tháng, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 136,5 nghìn ha, giảm 3,8% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 58,5 triệu cây, giảm 0,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 10.490 nghìn m3, tăng 1,6%; sản lượng củi khai thác đạt 12,9 triệu ste, giảm 0,2%.

Công tác phòng và chữa cháy rừng tiếp tục được tăng cường, tuy nhiên nạn chặt phá rừng làm nương rẫy lại gia tăng ở một số địa phương. Trong tháng 8/2020, diện tích rừng bị thiệt hại là 116,5 ha, giảm 75,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 45,8 ha, giảm 89,5%; diện tích rừng bị chặt phá là 70,7 ha, tăng 55%. Tính chung 8 tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 1.881,1 ha, giảm 15,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 1.362,9 ha, giảm 23,8%; diện tích rừng bị chặt phá là 518,3 ha, tăng 19%.

c) Thủy sản

Sản lượng thủy sản cả nước tháng 8/2020 ước tính đạt 741,8 nghìn tấn, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 528 nghìn tấn, tăng 2%; tôm đạt 100,1 nghìn tấn, giảm 1,8%; thủy sản khác đạt 113,7 nghìn tấn, tăng 1,1%.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 405,9 nghìn tấn, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 277,8 nghìn tấn, tăng 1%; tôm đạt 87,5 nghìn tấn, giảm 2,2%. Dịch Covid-19 tiếp tục gây ảnh hưởng lớn đến các sản phẩm thủy sản chủ lực, chủ yếu sản xuất phục vụ chế biến xuất khẩu. Giá cá tra nguyên liệu ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong tháng dao động ở mức 18.000-18.500 đồng/kg, người nuôi đang lỗ khoảng 4.500-5.000 đồng/kg. Giá tôm thẻ chân trắng trong nửa đầu tháng Tám giảm mạnh so với tháng Bảy và xuống mức thấp nhất kể từ đầu năm 2020. Sản lượng cá tra tháng Tám ước tính đạt 139 nghìn tấn, giảm 3,6% so với cùng kỳ năm trước; tôm sú đạt 24,1 nghìn tấn, giảm 6%; tôm thẻ chân trắng đạt 61,7 nghìn tấn, giảm 1,1%.

Sản lượng thủy sản khai thác tháng 8/2020 ước tính đạt 335,9 nghìn tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 250,2 nghìn tấn, tăng 3%; tôm đạt 12,6 nghìn tấn, tăng 1,6%; thủy sản khác đạt 73,1 nghìn tấn, tăng 2,2%. Sản lượng thủy sản khai thác biển tháng Tám ước tính đạt 317,2 nghìn tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 237,4 nghìn tấn, tăng 3%; tôm đạt 11,7 nghìn tấn, tăng 1,7%.

Tính chung 8 tháng năm 2020, sản lượng thủy sản ước tính đạt 5.385,1 nghìn tấn, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 2.815,4 nghìn tấn, tăng 1,2%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 2.569,7 nghìn tấn, tăng 1,8% (sản lượng khai thác biển đạt 2.455,6 nghìn tấn, tăng 1,9%).

2. Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp tháng 8/2020 tiếp tục đối mặt với khó khăn, nhất là trong tình hình dịch Covid-19 bùng phát trở lại vào cuối tháng 7/2020 tại Đà Nẵng và lây lan sang một số địa phương trên cả nước. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2020 chỉ tăng 3,5% so với tháng trước và giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 2,2%, là mức tăng thấp nhất trong nhiều năm qua[2].

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 8/2020 ước tính tăng 3,5% so với tháng trước và giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 5,1%; ngành chế biến, chế tạo giảm 0,1%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 0,7%; ngành cung cấp nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải tăng 2,2%.

Tính chung 8 tháng năm 2020, IIP ước tính tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng 9,5% của cùng kỳ năm 2019. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 3,7% (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,6%), đóng góp 3 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 2%, đóng góp 0,2 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,9%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 7%, làm giảm 1,1 điểm phần trăm trong mức tăng chung.

Dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp trên toàn cầu làm chuỗi cung ứng nguyên liệu đầu vào bị gián đoạn, đồng thời bùng phát trở lại ở một số địa phương trên cả nước từ cuối tháng 7/2020 đã ảnh hưởng đến sự phục hồi của sản xuất công nghiệp. Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 8 tháng giảm sâu hoặc tăng rất thấp so với cùng kỳ năm trước: Hoạt động dịch vụ hỗ trợ khai thác mỏ và quặng giảm 23,3%; sản xuất xe có động cơ giảm 14%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 11,4%; sản xuất mô tô, xe máy giảm 9,5%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 7,8%; sản xuất đồ uống giảm 6,9%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 5,1%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 4,3%; sản xuất trang phục giảm 4,2%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 4%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 1,4%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 1,2%; dệt tăng 1,3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 2,8%. Bên cạnh đó, một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất 8 tháng tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 26,2%; khai thác quặng kim loại tăng 14,4%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 10,3% (sản xuất sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 10,8%); sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 9,6%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 8,4%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất, sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học cùng tăng 7,8%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực trong 8 tháng giảm sâu hoặc tăng thấp so với cùng kỳ năm trước: Bia giảm 14,8%; dầu thô khai thác giảm 14%; ô tô giảm 12,5%; khí hóa lỏng (LPG) giảm 12,1%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 9,2%; vải dệt từ sợi nhân tạo giảm 8,4%; sắt, thép thô giảm 7,8%; xe máy giảm 7,1%; quần áo mặc thường giảm 5,5%; điện thoại di động giảm 4,4%; thép cán giảm 3,4%; thức ăn cho gia súc giảm 2,9%; phân hỗn hợp NPK tăng 0,4%; alumin tăng 0,7%; điện sản xuất tăng 1,9%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 2,4%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Ti vi tăng 14,9%; xăng dầu các loại tăng 12,6%; bột ngọt tăng 12,4%; thép thanh, thép góc tăng 12%; thuốc lá điếu tăng 8,4%; phân u rê tăng 7,3%; than sạch tăng 5,3%.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/8/2020 tăng 1,2% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 2,9% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 1,7%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 3,5%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 2,8%. Tại thời điểm trên, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 0,9% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo giảm 3,1%; sản xuất và phân phối điện tăng 0,6%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải giảm 1,1%.

3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[3]

Dịch Covid-19 mới xuất hiện trở lại vào cuối tháng 7/2020 nên chưa ảnh hưởng quá nặng nề đến tâm lý cộng đồng doanh nghiệp, số doanh nghiệp thành lập mới trong tháng Tám vẫn tăng 1,5% so với tháng trước, vốn đăng ký tăng 20,7%. Tính chung 8 tháng năm 2020, cả nước có 88,7 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 2% so với cùng kỳ năm trước với vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp là 13,8 tỷ đồng, tăng 8,7%; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 27,9%; doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể giảm 5,9% và doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể giảm 1,9%.

Trong tháng 8/2020, cả nước có 13,4 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 288,8 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký là 96,3 nghìn lao động, tăng 1,5% về số doanh nghiệp, tăng 20,7% về vốn đăng ký và tăng 5,4% về số lao động so với tháng trước[4]. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 21,6 tỷ đồng, tăng 18,9% so với tháng trước và tăng 59,2% so với cùng kỳ năm 2019. Trong tháng, cả nước còn có 4.775 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 1,3% so với tháng trước và tăng 200,9% so với cùng kỳ năm 2019; có 3.102 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 8% và tăng 158,5%; có 3.424 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 11,6% và tăng 63,4%; có 1.416 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 5,9% và tăng 9,3%; có 3.917 doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, giảm 14,7% và tăng 134,4%.

Tính chung 8 tháng, cả nước có 88,7 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.225,2 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 694,9 nghìn lao động, giảm 2% về số doanh nghiệp, tăng 6,5% về vốn đăng ký và giảm 16,5% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 8 tháng đạt 13,8 tỷ đồng, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 1.993,2 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 26,1 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 8 tháng năm nay là 3.218,4 nghìn tỷ đồng, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có 32,6 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 27,9% so với 8 tháng năm 2019, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 8 tháng lên 121,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, trung bình mỗi tháng có gần 15,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

Theo khu vực kinh tế, 8 tháng năm nay có 1.697 doanh nghiệp thành lập mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 30% so với cùng kỳ năm trước; có hơn 26,3 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng, tăng 7,7%; có 60,6 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ, giảm 6,3%. Một số ngành, lĩnh vực hoạt động có số doanh nghiệp thành lập mới tăng trở lại như: Sản xuất phân phối điện, nước, gas có 3.394 doanh nghiệp, tăng 247% so với cùng kỳ năm trước; khoa học công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác 7.724 doanh nghiệp, tăng 1,9%; khai khoáng 454 doanh nghiệp, tăng 1,1%. Các ngành còn lại đều có số doanh nghiệp thành lập mới giảm: bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có 29,3 nghìn doanh nghiệp, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2019; xây dựng 11,4 nghìn doanh nghiệp, giảm 1,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo 11,1 nghìn doanh nghiệp, giảm 3,2%; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác 4.537 doanh nghiệp, giảm 14%; kinh doanh bất động sản 4.331 doanh nghiệp, giảm 19,6%; vận tải, kho bãi 3.633 doanh nghiệp, giảm 4,9%; dịch vụ lưu trú và ăn uống 3.433 doanh nghiệp, giảm 20,3%; thông tin truyền thông 2.506 doanh nghiệp, giảm 2,1%; giáo dục và đào tạo 2.355 doanh nghiệp, giảm 13,2%; tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 865 doanh nghiệp, giảm 9,9%; nghệ thuật, vui chơi, giải trí 584 doanh nghiệp, giảm 36,7%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 597 doanh nghiệp, giảm 2,3%.

Trong 8 tháng, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là gần 34,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 70,8% so với cùng kỳ năm trước; 24,2 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 5,9%; 10,4 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 1,9%, trong đó có 9,2 nghìn doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, giảm 3,8%; 168 doanh nghiệp có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng, tăng 11,3%. Doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực: bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có gần 3,8 nghìn doanh nghiệp; công nghiệp chế biến, chế tạo có 1.175 doanh nghiệp; xây dựng có 897 doanh nghiệp; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác có 675 doanh nghiệp; kinh doanh bất động sản có 620 doanh nghiệp; dịch vụ lưu trú và ăn uống có 589 doanh nghiệp; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng, các dịch vụ hỗ trợ khác có 566 doanh nghiệp; vận tải, kho bãi có 431 doanh nghiệp; giáo dục, đào tạo có 396 doanh nghiệp; thông tin truyền thông có 379 doanh nghiệp. Trong 8 tháng, trên cả nước còn có 30,6 nghìn doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, tăng 39,3% so với cùng kỳ năm trước.

4. Đầu tư

Với quyết tâm vừa đẩy lùi dịch bệnh vừa phát triển kinh tế, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các Bộ, ngành và địa phương tập trung thực hiện các giải pháp đồng bộ, nỗ lực tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, công trình. Tốc độ tăng vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Tám và 8 tháng năm 2020 lần lượt tăng 45,4% và tăng 30,4% so với cùng kỳ năm trước, mức cao nhất trong giai đoạn 2016-2020[5].

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 8/2020 ước tính đạt 47,4 nghìn tỷ đồng, tăng 45,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn Trung ương quản lý 8,7 nghìn tỷ đồng, tăng 86,7%; vốn địa phương quản lý 38,7 nghìn tỷ đồng, tăng 38,5%. Tính chung 8 tháng năm 2020, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 250,5 nghìn tỷ đồng, bằng 50,7% kế hoạch năm và tăng 30,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 bằng 50,1% và tăng 5,4%), cụ thể:

– Vốn Trung ương quản lý đạt 41,2 nghìn tỷ đồng, bằng 48,7% kế hoạch năm và tăng 65,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Bộ Giao thông vận tải đạt 10.741 tỷ đồng, bằng 53,5% và tăng 90,8%; Bộ Y tế 2.902 tỷ đồng, bằng 43,5% và tăng 38,5%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2.192 tỷ đồng, bằng 49,3% và tăng 38,1%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 1.210 tỷ đồng, bằng 39,5% và tăng 88,5%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 575 tỷ đồng, bằng 36,4% và tăng 12,6%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 303 tỷ đồng, bằng 41,9% và giảm 12,8%; Bộ Công Thương 210 tỷ đồng, bằng 48,6% và tăng 65,8%; Bộ Xây dựng 157 tỷ đồng, bằng 44,2% và tăng 42,4%; Bộ Khoa học và Công nghệ 113 tỷ đồng, bằng 39,9% và giảm 28,9%; Bộ Thông tin và Truyền thông 56 tỷ đồng, bằng 40,6% và giảm 20,4%.

– Vốn địa phương quản lý đạt 209,3 nghìn tỷ đồng, bằng 51,1% kế hoạch năm và tăng 25,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 140,2 nghìn tỷ đồng, bằng 48,7% và tăng 24,4%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 58,3 nghìn tỷ đồng, bằng 55,9% và tăng 26,9%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 10,8 nghìn tỷ đồng, bằng 63,9% và tăng 25,9%. Vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 8 tháng năm 2020 của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 26.587 tỷ đồng, bằng 58,6% kế hoạch năm và tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 22.279 tỷ đồng, bằng 46,6% và tăng 79,8%; Quảng Ninh 9.453 tỷ đồng, bằng 68% và tăng 58,3%; Bình Dương 7.028 tỷ đồng, bằng 47,1% và tăng 13,6%; Thanh Hóa 6.356 tỷ đồng, bằng 62% và tăng 29,8%; Hải Phòng 5.758 tỷ đồng, bằng 39,9% và tăng 8,9%; Nghệ An 4.993 tỷ đồng, bằng 64,3% và tăng 41,7%; Bà Rịa – Vũng Tàu 4.813 tỷ đồng, bằng 49,6% và tăng 12,6%; Bình Định 4.549 tỷ đồng, bằng 55,9% và tăng 45,6%.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/8/2020 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 19,5 tỷ USD, giảm 13,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 1.797 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 9,7 tỷ USD, giảm 25,3% về số dự án và tăng 6,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 718 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 4,9 tỷ USD, tăng 22,2%; có 4.804 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn đạt 4,9 tỷ USD, giảm 48,2%. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 1.137 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp là 1,8 tỷ USD và 3.667 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị hơn 3,1 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 8 tháng ước tính đạt 11,4 tỷ USD, giảm 5,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt gần 8,1 tỷ USD, chiếm 71,1% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1,7 tỷ USD, chiếm 14,9%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 0,8 tỷ USD, chiếm 7%.

Trong 8 tháng năm 2020, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 4,5 tỷ USD, chiếm 46,1% tổng số vốn đăng ký cấp mới; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt hơn 4 tỷ USD, chiếm 41,5%; các ngành còn lại đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 12,4%. Nếu tính cả vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt gần 8 tỷ USD, chiếm 54,7% tổng số vốn; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 3,9 tỷ USD[6], chiếm 26,6%; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1,6 tỷ USD, chiếm 11,3%; các ngành còn lại đạt 1,1 tỷ USD, chiếm 7,4%. Đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt hơn 1,3 tỷ USD, chiếm 26,9% tổng vốn; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 24,9%; bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 0,7 tỷ USD, chiếm 14,8%; các ngành còn lại đạt 1,7 tỷ USD, chiếm 33,4%.

Trong số 70 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 8 tháng, Xin-ga-po là nhà đầu tư lớn nhất với 4,6 tỷ USD, chiếm 47,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hàn Quốc 1.039,5 triệu USD, chiếm 10,7%; Trung Quốc 1.025,7 triệu USD, chiếm 10,5%; Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) 856,1 triệu USD, chiếm 8,8%; Đài Loan 823 triệu USD, chiếm 8,5%; Nhật Bản 442,3 triệu USD, chiếm 4,5%.

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 8 tháng có 86 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đầu tư của phía Việt Nam là 218,4 triệu USD; có 25 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm đạt 111,8 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) 8 tháng đạt 330,2 triệu USD, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 225,7 triệu USD, chiếm 68,4% tổng vốn đầu tư; dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 39,6 triệu USD, chiếm 12%; bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 19,6 triệu USD, chiếm 5,9%. Trong 8 tháng có 24 quốc gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam, trong đó Đức là nước dẫn đầu với 92,6 triệu USD, chiếm 28%; Lào 86,7 triệu USD, chiếm 26,3%; Mi-an-ma 44,6 triệu USD, chiếm 13,5%; Hoa Kỳ 40,8 triệu USD, chiếm 12,3%.

[1] Bắc Ninh, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Lạng Sơn, Điện Biên, Lai Châu , Sơn La, Hòa Bình,  Quảng Trị, Quảng Nam, Đắk Nông, Đắk Lắk, Tiền Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp và Bạc Liêu.

[2] Tốc độ tăng chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng các năm 2012-2020 lần lượt là: 6,3%; 5,4%; 6,5%; 9,8%; 7,2%; 8,2%; 10,8%; 9,5%; 2,2%.

[3] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

[4] So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp tăng 19,9%; số vốn đăng ký tăng 90,9%; lao động tăng 9%.

[5] Tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn NSNN tháng Tám so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020: năm 2016 tăng 16,5%; năm 2017 tăng 6,1%; năm 2018 tăng 14,7%; năm 2019 tăng 9,3%; năm 2020 tăng 45,4%.

Tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn NSNN 8 tháng so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020: năm 2016 tăng 12,7%; năm 2017 tăng 6,4%; năm 2018 tăng 10,4%; năm 2019 tăng 5,4%; năm 2020 tăng 30,4%.

[6] Ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí có 3 dự án điều chỉnh vốn làm giảm 152,8 triệu USD.

Theo Tổng cục Thống kê
Số lượt đọc: 834
Thông báo