I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ (tiếp)
5. Hoạt động dịch vụ
a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Theo đà của tháng Năm, hoạt động thương mại dịch vụ trong nước tháng Sáu tiếp tục tăng trở lại với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 6,2% so với tháng trước và tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên tính chung 6 tháng đầu năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm 0,8%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Sáu ước tính đạt 431 nghìn tỷ đồng, tăng 6,2% so với tháng trước và tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý II/2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 1.154,9 nghìn tỷ đồng, giảm 5,8% so với quý trước và giảm 4,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 928,5 nghìn tỷ đồng, giảm 4% và tăng 1,2%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 108,5 nghìn tỷ đồng, giảm 14% và giảm 26,1%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,5 nghìn tỷ đồng, giảm 68,2% và giảm 77,8%; doanh thu dịch vụ khác đạt 115,4 nghìn tỷ đồng, giảm 7,5% và giảm 14,4%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 2.380,8 nghìn tỷ đồng, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 5,3% (cùng kỳ năm 2019 tăng 8,5%).
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 6 tháng đạt 1.895,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 79,6% tổng mức và tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước do nguồn cung hàng hóa dồi dào, bên cạnh đó hình thức mua sắm trực tuyến ngày càng phổ biến, đặc biệt là trong thời gian giãn cách xã hội nên vẫn đáp ứng được nhu cầu của người dân. Trong đó, lương thực, thực phẩm tăng 7%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 5%; may mặc giảm 1,2%; phương tiện đi lại giảm 3,5%; vật phẩm văn hoá, giáo dục giảm 6%. Một số địa phương có mức doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Hải Phòng tăng 10,4%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 10,1%; Hà Nội tăng 9,9%; Đồng Nai tăng 8,4%; Bình Định tăng 4,3%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 3%; Thanh Hóa tăng 0,9%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 6 tháng đầu năm nay ước tính đạt 234,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,9% tổng mức và giảm 18,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,2%), trong đó quý II/2020 giảm mạnh 26,1% do ảnh hưởng của tháng thực hiện giãn cách xã hội. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 6 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương: Khánh Hòa giảm 60,3%; Bà Rịa – Vũng Tàu giảm 49,4%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 47,3%; Cần Thơ giảm 29,5%; Đà Nẵng giảm 27,1%; Hà Nội giảm 22,8%; Quảng Bình giảm 20,4%; Quảng Ninh giảm 17,4%; Hải Phòng giảm 13,8%.
Doanh thu du lịch lữ hành 6 tháng ước tính đạt 10,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,4% tổng mức và giảm 53,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 12,4%) do việc tạm dừng tiếp nhận khách du lịch quốc tế để khống chế dịch Covid-19, đồng thời trong tháng Sáu học sinh và sinh viên chưa nghỉ hè nên du lịch nội địa còn kém sôi động. Một số địa phương có doanh thu du lịch lữ hành 6 tháng giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước: Khánh Hòa giảm 73,5%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 71,2%; Bà Rịa – Vũng Tàu giảm 66,2%; Quảng Ninh giảm 60,8%; Cần Thơ giảm 55,8%; Quảng Bình giảm 52,3%; Thanh Hóa giảm 47,1%; Hà Nội giảm 44,2%; Đà Nẵng giảm 44%; Hải Phòng giảm 28,9%.
Doanh thu dịch vụ khác 6 tháng ước tính đạt 240,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% tổng mức và giảm 7,4% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó doanh thu của Bà Rịa – Vũng Tàu giảm 17,4%; Thanh Hóa giảm 14,7%; Đà Nẵng giảm 13,8%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 11,5%; Hà Nội giảm 8,7%; Cần Thơ giảm 8,4%; Hải Phòng giảm 7,4%.
b) Vận tải và viễn thông
Hoạt động vận tải trong nước tháng 6/2020 tiếp tục xu hướng khôi phục trở lại với mức tăng 13,4% lượng hành khách vận chuyển và tăng 7,3% lượng hàng hóa vận chuyển so với tháng trước. Tuy nhiên, vận tải ngoài nước của các hãng hàng không vẫn gặp nhiều khó khăn do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 ở các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tính chung 6 tháng đầu năm, vận chuyển hành khách giảm 27,3% và vận chuyển hàng hóa giảm 8,1% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hành khách tháng Sáu ước tính đạt 297,4 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 13,4% so với tháng trước và luân chuyển 12,7 tỷ lượt khách.km, tăng 9,3%; quý II năm nay ước tính đạt 681,1 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 44,4% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 29,1 tỷ lượt khách.km, giảm 51,9%. Tính chung 6 tháng, vận tải hành khách đạt 1.812,6 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 27,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,7%) và luân chuyển 82,4 tỷ lượt khách.km, giảm 32,7% (cùng kỳ năm trước tăng 9,5%), trong đó vận tải trong nước đạt 1.809,9 triệu lượt khách, giảm 27,2% và 73 tỷ lượt khách.km, giảm 24,6%; vận tải ngoài nước đạt 2,7 triệu lượt khách, giảm 68,6% và 9,4 tỷ lượt khách.km, giảm 63,2%. Xét theo ngành vận tải, tất cả các ngành đường đều giảm do ảnh hưởng của dịch Covid-19 từ những tháng trước, trong đó vận tải hành khách đường bộ 6 tháng đạt 1.701,9 triệu lượt khách, giảm 27,8% so với cùng kỳ năm trước và 61,2 tỷ lượt khách.km, giảm 24,4%; đường thủy nội địa đạt 91,3 triệu lượt khách, giảm 10,3% và gần 2 tỷ lượt khách.km, giảm 12,7%; hàng không đạt 14,6 triệu lượt khách, giảm 46,1% và 18,2 tỷ lượt khách.km, giảm 51,2%; đường biển đạt 2,8 triệu lượt khách, giảm 27,4% và 176,9 triệu lượt khách.km, giảm 22,6%; đường sắt đạt 2 triệu lượt khách, giảm 53,7% và 897,1 triệu lượt khách.km, giảm 48,3%.
Vận tải hàng hóa tháng Sáu ước tính đạt 139,2 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 7,3% so với tháng trước và luân chuyển 28,5 tỷ tấn.km, tăng 5,7%; quý II năm nay ước tính đạt 379,1 triệu tấn hàng hóa, giảm 15,4% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 77,3 tỷ tấn.km, giảm 12,1%. Tính chung 6 tháng, vận tải hàng hóa đạt 807,9 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, giảm 8,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 8,5%) và luân chuyển 159,8 tỷ tấn.km, giảm 7,1% (cùng kỳ năm trước tăng 7,1%), trong đó vận tải trong nước đạt 790,1 triệu tấn, giảm 8,2% và 82,3 tỷ tấn.km, giảm 12%; vận tải ngoài nước đạt 17,8 triệu tấn, giảm 5,3% và 77,5 tỷ tấn.km, giảm 1,1%. Xét theo ngành vận tải, vận tải hàng hóa đường bộ 6 tháng đạt 622,8 triệu tấn, giảm 8,8% so với cùng kỳ năm trước và 43,8 tỷ tấn.km, giảm 10,5%; đường thủy nội địa đạt 143,9 triệu tấn, giảm 5,9% và 31,4 tỷ tấn.km, giảm 5%; đường biển đạt 38,6 triệu tấn, giảm 4,5% và 81,1 tỷ tấn.km, giảm 3,9%; đường sắt đạt 2,5 triệu tấn, giảm 3% và 1,8 tỷ tấn.km, giảm 2,9%; đường hàng không đạt 132,3 nghìn tấn, giảm 36,3% và 1,7 tỷ tấn.km, giảm 53,5%.
Doanh thu hoạt động viễn thông quý II/2020 ước tính đạt 97,1 nghìn tỷ đồng, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 4,2%). Tính chung 6 tháng đầu năm, doanh thu đạt 192,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 3%), thấp hơn mức tăng 7,2% của cùng kỳ năm 2019 do ảnh hưởng của dịch Covid-19, lượng khách quốc tế đến Việt Nam giảm mạnh nên doanh thu roaming (chuyển vùng quốc tế) cũng giảm, đồng thời nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị và cá nhân cũng giảm bớt trong giai đoạn thực hiện giãn cách xã hội. Tổng số thuê bao điện thoại tại thời điểm cuối tháng 6/2020 ước tính đạt 130,4 triệu thuê bao, giảm 5,3% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó thuê bao di động đạt 126,9 triệu thuê bao, giảm 5,1% chủ yếu do các nhà mạng tiếp tục xử lý sim rác theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông. Số thuê bao truy nhập internet băng rộng cố định tại thời điểm cuối tháng Sáu ước tính đạt 15,7 triệu thuê bao, tăng 13,7% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó thuê bao truy nhập qua hệ thống cáp quang (FTTH) và qua hệ thống cáp truyền hình (CATV) tăng nhanh, thuê bao truy nhập qua hình thức xDSL tiếp tục giảm.
c) Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Sáu chỉ đạt 8,8 nghìn lượt người, mức thấp nhất trong nhiều năm qua, giảm 61,3% so với tháng trước và giảm 99,3% so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, chưa mở cửa du lịch quốc tế nên lượng khách đến trong tháng chủ yếu là chuyên gia, lao động kỹ thuật nước ngoài làm việc tại các dự án ở Việt Nam. Tính chung 6 tháng đầu năm, khách quốc tế đến nước ta đạt 3,7 triệu lượt người, giảm 55,8% so với cùng kỳ năm trước.
Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Sáu ước tính đạt 8,8 nghìn lượt người, giảm 61,3% so với tháng trước và giảm 99,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 3.744,5 nghìn lượt người, giảm 55,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 3.040,5 nghìn lượt người, chiếm 81,2% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, giảm 54,3%; bằng đường bộ đạt 559,6 nghìn lượt người, chiếm 14,9% và giảm 66,8%; bằng đường biển đạt 144,3 nghìn lượt người, chiếm 3,9% và tăng 3,7%.
Trong 6 tháng đầu năm, khách đến từ châu Á đạt 2.729,6 nghìn lượt người, chiếm 72,9% tổng số khách quốc tế đến nước ta, giảm 58,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khách đến từ hầu hết các thị trường chính đều giảm mạnh: Trung Quốc đạt 919,5 nghìn lượt người, giảm 63% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc 823 nghìn lượt người, giảm 60,4%; Nhật Bản 201,4 nghìn lượt người, giảm 55,8%; Đài Loan 192,8 nghìn lượt người, giảm 55,2%; Ma-lai-xi-a 116,4 nghìn lượt người, giảm 61%; riêng khách đến từ Cam-pu-chia đạt 120,5 nghìn lượt người, tăng 105,9%.
Khách đến từ châu Âu trong 6 tháng ước tính đạt 666,1 nghìn lượt người, giảm 42% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Liên bang Nga 245,7 nghìn lượt người, giảm 31,5%; Vương quốc Anh 81,6 nghìn lượt người, giảm 50,6%; Pháp 74,6 nghìn lượt người, giảm 51,9%; Đức 61,5 nghìn lượt người, giảm 48,1%. Khách đến từ châu Mỹ ước tính đạt 234,4 nghìn lượt người, giảm 54,8% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là khách đến từ Hoa Kỳ đạt 172,8 nghìn lượt người, giảm 56%. Khách đến từ châu Úc đạt 102,3 nghìn lượt người, giảm 54,4%, trong đó khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt 92,3 nghìn lượt người, giảm 53,9%. Khách đến từ châu Phi đạt 12,1 nghìn lượt người, giảm 46,6% so với cùng kỳ năm 2019.
II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
1. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán
Hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng trong 6 tháng đầu năm 2020 chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, tăng trưởng tín dụng tính đến thời điểm 19/6/2020 đạt mức thấp nhất so với cùng thời điểm của các năm trong giai đoạn 2016-2020. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm gặp khó khăn do thu nhập của người dân trong giai đoạn phòng, chống dịch giảm gây ảnh hưởng đến việc đóng phí các hợp đồng bảo hiểm đang còn hiệu lực và hạn chế tham gia các gói bảo hiểm mới. Thị trường chứng khoán giảm mạnh với tổng mức huy động vốn 6 tháng đầu năm nay cho nền kinh tế giảm 37% so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên thị trường đang có dấu hiệu tích cực từ sự phục hồi của kinh tế vĩ mô trong nước khi dịch Covid-19 được kiểm soát hiệu quả.
Tính đến thời điểm 19/6/2020, tổng phương tiện thanh toán tăng 4,59% so với cuối năm 2019 (cùng thời điểm năm 2019 tăng 6,05%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 4,35% (cùng thời điểm năm 2019 tăng 6,09%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 2,45% (cùng thời điểm năm 2019 tăng 6,22%) và đây là mức tăng trưởng tín dụng thấp nhất của thời điểm 19/6 các năm 2016-2020[19].
Từ đầu năm 2020 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều chỉnh giảm 2 lần các mức lãi suất điều hành với tổng mức giảm 1%-1,5%/năm để hỗ trợ thanh khoản và tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn chi phí thấp; trong đó giảm 0,6%-0,75%/năm mức lãi suất trần tiền gửi các kỳ hạn dưới 6 tháng và giảm 1%/năm mức lãi suất trần cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên. Hiện nay, lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam phổ biến ở mức 0,1%-0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4%-4,25%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 4,9%-6,6%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 6,5%-7,4%/năm. Mặt bằng lãi suất cho vay đồng Việt Nam phổ biến ở mức 6%-9%/năm đối với cho vay ngắn hạn; 9%-11%/năm đối với cho vay trung và dài hạn.
Doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường 6 tháng đầu năm 2020 tăng 11% so với cùng kỳ năm trước (quý II/2020 ước tính tăng 6%), trong đó doanh thu phí bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ tăng 13%; lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tăng 8%. Dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đặc biệt là lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ với đặc thù cần có sự gặp mặt trực tiếp để tư vấn cho khách hàng. Do lĩnh vực bảo hiểm không thuộc nhóm hàng hóa thiết yếu nên các điểm kinh doanh, giao dịch bảo hiểm với khách hàng phải đóng cửa và tạm dừng hoạt động trong thời gian giãn cách xã hội. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp Bảo hiểm nhân thọ đã tăng cường hoạt động giao dịch, tư vấn bằng hình thức trực tuyến, chủ động gia hạn thời gian đóng phí bảo hiểm từ 60 ngày đến 90 ngày nhằm đảm bảo quyền lợi cho khách hàng.
Trong tháng Sáu, thị trường Chứng khoán Việt Nam đã có tín hiệu phục hồi nhờ việc kiểm soát tốt dịch Covid-19 và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp dần trở lại bình thường. Tuy nhiên, tính chung 6 tháng đầu năm, tổng mức huy động vốn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán ước tính đạt 94,6 nghìn tỷ đồng, vẫn giảm 37% so với cùng kỳ năm trước.
Trên thị trường cổ phiếu, tính đến 11h ngày 26/6/2020, chỉ số VNIndex đạt 857,38 điểm, giảm 0,8% so với cuối tháng trước và giảm 10,8% so với cuối năm 2019; mức vốn hóa thị trường tính đến ngày 18/6/2020 đạt 4.030 nghìn tỷ đồng, giảm 8,1% so với cuối năm 2019. Giá trị giao dịch bình quân trong tháng Sáu đạt 8.524 tỷ đồng/phiên, tăng 29% so với tháng trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường đạt 5.633 tỷ đồng/phiên, tăng 20,9% so với bình quân năm 2019. Hiện nay, thị trường có 748 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết; 894 cổ phiếu đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM với tổng giá trị niêm yết và đăng ký giao dịch đạt gần 1.422,8 nghìn tỷ đồng, tăng 1% so với cuối năm 2019.
Trên thị trường trái phiếu, hiện có 492 mã trái phiếu niêm yết với giá trị niêm yết đạt 1.172 nghìn tỷ đồng, giảm 1,5% so với cuối năm 2019. Giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trong tháng Sáu đạt 7.120 tỷ đồng/phiên, tăng 23,7% so với tháng trước. Tính chung 6 tháng, giá trị giao dịch bình quân đạt 9.862 tỷ đồng/phiên, tăng 7,1% so với bình quân năm 2019.
Trên thị trường chứng khoán phái sinh, khối lượng giao dịch bình quân trong tháng Sáu đạt 166.184 hợp đồng/phiên, giảm 19% so với tháng trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, khối lượng giao dịch bình quân đạt 163.984 hợp đồng/phiên, tăng 85% so với bình quân năm trước. Tại thời điểm cuối tháng 5/2020, số lượng tài khoản giao dịch phái sinh đạt 118.126 tài khoản, tăng 7% so với cuối tháng trước.
2. Đầu tư phát triển
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 6 tháng đầu năm 2020 tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2019, mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020 do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 đến tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Sáu và 6 tháng đầu năm đều đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2016-2020[20]. Đây là tín hiệu tích cực phản ánh kết quả việc Chính phủ thực hiện quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 6 tháng ước tính đạt 8,65 tỷ USD, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm trước[21].
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý II/2020 theo giá hiện hành ước tính đạt 481,2 nghìn tỷ đồng, tăng 4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn khu vực Nhà nước tăng 7,8%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 4,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 2,4%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành ước tính đạt 850,3 nghìn tỷ đồng, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước và bằng 33% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 273,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 32,2% tổng vốn và tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 375,9 nghìn tỷ đồng, bằng 44,2% và tăng 4,6%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 200,9 nghìn tỷ đồng, bằng 23,6% và giảm 3,8%.
Tốc độ phát triển và cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện
6 tháng đầu năm giai đoạn 2016-2020 (Theo giá hiện hành)
%
|
Tổng
số
|
Khu vực
Nhà nước
|
Khu vực
ngoài Nhà nước
|
Khu vực có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
|
Tốc độ phát triển
|
Năm 2016
|
110,3
|
105,4
|
112,9
|
114,3
|
Năm 2017
|
111,2
|
106,5
|
115,6
|
111,6
|
Năm 2018
|
110,0
|
102,4
|
117,5
|
109,0
|
Năm 2019
|
110,2
|
102,8
|
116,5
|
109,7
|
Năm 2020
|
103,4
|
107,4
|
104,6
|
96,2
|
Cơ cấu
|
Năm 2016
|
100,0
|
37,2
|
37,2
|
25,6
|
Năm 2017
|
100,0
|
35,6
|
38,7
|
25,7
|
Năm 2018
|
100,0
|
33,2
|
41,3
|
25,5
|
Năm 2019
|
100,0
|
30,9
|
43,7
|
25,4
|
Năm 2020
|
100,0
|
32,2
|
44,2
|
23,6
|
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện 6 tháng ước tính đạt 154,4 nghìn tỷ đồng, bằng 33,1% kế hoạch năm và tăng 19,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 bằng 33,8% và tăng 4,2%), gồm có: Vốn trung ương quản lý đạt 24,1 nghìn tỷ đồng, bằng 31,1% kế hoạch năm và tăng 48,8% so với cùng kỳ năm trước; vốn địa phương quản lý đạt 130,3 nghìn tỷ đồng, bằng 33,5% và tăng 15%, trong đó vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 86,4 nghìn tỷ đồng, bằng 31,9% và tăng 13,3%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 36,7 nghìn tỷ đồng, bằng 36,1% và tăng 17,7%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 7,2 nghìn tỷ đồng, bằng 44,3% và tăng 22,9%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/6/2020 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 15,7 tỷ USD, giảm 15,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 1.418 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt gần 8,5 tỷ USD, giảm 17,7% về số dự án và tăng 13,8% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 526 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 3,7 tỷ USD, tăng 26,8%; có 4.125 lượt góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn 3,5 tỷ USD, giảm 56,8%. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 866 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 1,6 tỷ USD và 3.259 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 1,9 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 6 tháng đầu năm ước tính đạt 8,65 tỷ USD, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 6,1 tỷ USD, chiếm 70,8% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1,3 tỷ USD, chiếm 15,5%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 634,3 triệu USD, chiếm 7,3%.
Trong 6 tháng đầu năm nay, ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí được cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 4 tỷ USD, chiếm 47,4% tổng vốn đăng ký cấp mới; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 3,6 tỷ USD, chiếm 42,3%; các ngành còn lại đạt 864,5 triệu USD, chiếm 10,3%. Nếu tính cả vốn đăng ký điều chỉnh của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt hơn 6,8 tỷ USD, chiếm 56% tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 3,9 tỷ USD[22], chiếm 31,6%; các ngành còn lại đạt 1,5 tỷ USD, chiếm 12,4%. Đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 34,1% giá trị góp vốn; ngành bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 676 triệu USD, chiếm 19,3%; hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ đạt 464,8 triệu USD, chiếm 13,2%; các ngành còn lại 1,2 tỷ USD, chiếm 33,4%.
Trong số 61 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 6 tháng đầu năm, Xin-ga-po là nhà đầu tư lớn nhất với 4,3 tỷ USD, chiếm 51,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Trung Quốc 950,1 triệu USD, chiếm 11,3%; Đài Loan 775,2 triệu USD, chiếm 9,2%; Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) 770,8 triệu USD, chiếm 9,1%; Hàn Quốc 544,8 triệu USD, chiếm 6,5%; Nhật Bản 323,6 triệu USD, chiếm 3,8%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 137,5 triệu USD, chiếm 1,6%; Thái Lan 134,6 triệu USD, chiếm 1,6%.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2020 có 70 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 185,3 triệu USD; có 14 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm 37,4 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) đạt 222,7 triệu USD, bằng 111,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 137,9 triệu USD, chiếm 61,9% tổng vốn đầu tư; lĩnh vực bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 33,8 triệu USD, chiếm 15,2%; dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 15,9 triệu USD, chiếm 7,1%; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đạt 12 triệu USD, chiếm 5,4%. Trong 6 tháng đầu năm có 22 quốc gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam, trong đó Đức là nước dẫn đầu với 92,6 triệu USD, chiếm 41,6%; Mi-an-ma 38,3 triệu USD, chiếm 17,2%; Lào 24,7 triệu USD, chiếm 11,1%; Hoa Kỳ 21,7 triệu USD, chiếm 9,8%; Xin-ga-po 19 triệu USD, chiếm 8,5%; Cam-pu-chia 15,7 triệu USD, chiếm 7,1%.
3. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Công tác kiểm soát dịch Covid-19 được thực hiện tốt và có hiệu quả, các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế trong tháng 6/2020 từng bước trở lại trạng thái hoạt động bình thường như trước khi xảy ra dịch bệnh; đồng thời giá xăng, dầu trong nước tăng theo sự khởi sắc của thị trường dầu thô thế giới đã tác động tích cực đến kết quả thu, chi ngân sách nhà nước trong 15 ngày đầu tháng Sáu.
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/6/2020 ước tính đạt 607,1 nghìn tỷ đồng, bằng 40,1% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 503,8 nghìn tỷ đồng, bằng 39,9%; thu từ dầu thô 20,2 nghìn tỷ đồng, bằng 57,5%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 82,8 nghìn tỷ đồng, bằng 39,8%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 59 nghìn tỷ đồng, bằng 33,2% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 86,7 nghìn tỷ đồng, bằng 37,9%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 92,3 nghìn tỷ đồng, bằng 34%; thu thuế thu nhập cá nhân 59,3 nghìn tỷ đồng, bằng 46,1%; thu thuế bảo vệ môi trường 24,1 nghìn tỷ đồng, bằng 35,6%; thu tiền sử dụng đất 57,9 nghìn tỷ đồng, bằng 60,4%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/6/2020 ước tính đạt 676,2 nghìn tỷ đồng, bằng 38,7% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 475,1 nghìn tỷ đồng, bằng 45%; chi đầu tư phát triển 140,3 nghìn tỷ đồng, bằng 29,8%; chi trả nợ lãi 56,4 nghìn tỷ đồng, bằng 47,8%.
4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
a) Xuất, nhập khẩu hàng hóa[23]
Dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp trên thế giới, đặc biệt tại các nước đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam đã ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất, nhập khẩu của nhiều mặt hàng. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tháng 6 ước tính đạt 41,5 tỷ USD, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 238,4 tỷ USD, giảm 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 121,2 tỷ USD, giảm 1,1%; nhập khẩu đạt 117,2 tỷ USD, giảm 3%. Trong 6 tháng đầu năm xuất siêu đạt mức 4 tỷ USD.
Xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 5/2020 đạt 19.186 triệu USD, cao hơn 686 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại và linh kiện cao hơn 330 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 196 triệu USD; gạo cao hơn 98 triệu USD; đá quý, kim loại quý và sản phẩm cao hơn 75 triệu USD; hàng dệt may cao hơn 67 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 6/2020 ước tính đạt 21 tỷ USD, tăng 9,5% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,4 tỷ USD, tăng 2.5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 13,6 tỷ USD, tăng 13,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Sáu giảm 2%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 7,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 6,4%. Kim ngạch một số mặt hàng bị tác động bởi dịch Covid-19 do nhu cầu tiêu thụ tại các thị trường Mỹ và châu Âu sụt giảm: Điện thoại và linh kiện giảm 15,3% so với cùng kỳ năm trước; dệt may giảm 23,6%; giày dép giảm 11%; thủy sản giảm 5,2%. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện trong tháng vẫn đạt giá trị tăng khá với 26,6% so với cùng kỳ năm trước.
Trong quý II/2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 57,98 tỷ USD, giảm 9% so với cùng kỳ năm trước và giảm 8,3% so với quý I năm nay. Trong quý II có 9 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 70,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó mặt hàng điện tử, máy tính và linh kiện dẫn đầu với 10,2 tỷ USD, chiếm 17,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 20,4% so với cùng kỳ năm trước; điện thoại và linh kiện đạt 8,6 tỷ USD, giảm 24,1%; hàng dệt may đạt 5,7 tỷ USD, giảm 28,1%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 121,21 tỷ USD, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 41,38 tỷ USD, tăng 11,7%, chiếm 34,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 79,83 tỷ USD, giảm 6,7%, chiếm 65,9%.
Trong 6 tháng đầu năm có 22 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 86,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (4 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 52,7%), trong đó điện thoại và linh kiện có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, đạt 21,5 tỷ USD, chiếm 17,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm 8,4% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 19,3 tỷ USD, tăng 24,2%; hàng dệt may đạt 12,8 tỷ USD, giảm 15,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 10,3 tỷ USD, tăng 25,2%; giày dép đạt 8,1 tỷ USD, giảm 6,7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 5 tỷ USD, tăng 2,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 3,8 tỷ USD, giảm 11,1%; thủy sản đạt 3,6 tỷ USD, giảm 8,3%. Nhìn chung, tỷ trọng xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực vẫn thuộc về khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó: Điện thoại và linh kiện chiếm 91,7%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 70,4%; giày dép chiếm 77,8%; hàng dệt may 58%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản 6 tháng đầu năm nay giảm so với cùng kỳ năm trước: Rau quả đạt 1,8 tỷ USD, giảm 11,4%; cao su đạt 606 triệu USD, giảm 27,8% (lượng giảm 25,7%); hạt tiêu đạt 365 triệu USD, giảm 19,1% (lượng giảm 2,9%). Bên cạnh đó các mặt hàng gạo, cà phê và hạt điều tăng cả lượng và giá trị, gạo đạt 1,7 tỷ USD, tăng 19,3% (lượng tăng 5,6%); cà phê đạt 1,6 tỷ USD, tăng 2,5% (lượng tăng 3,7%); hạt điều đạt 1,5 tỷ USD, tăng 0,7% (lượng tăng 16,6%).
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 6 tháng đầu năm, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 64 tỷ USD, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước; chiếm 52,8% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (tăng 1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước). Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp ước tính đạt 43,3 tỷ USD, giảm 3,7% và chiếm 35,7% (giảm 1 điểm phần trăm). Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 10,4 tỷ USD, tăng 1% và chiếm 8,6% (tăng 0,2 điểm phần trăm). Nhóm hàng thủy sản đạt gần 3,6 tỷ USD, giảm 8,3% và chiếm 2,9% (giảm 0,2 điểm phần trăm).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2020, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 30,3 tỷ USD, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là Trung Quốc đạt 19,5 tỷ USD, tăng 17,4% (do mặt hàng điện thoại và linh kiện tăng 127,9%). Thị trường EU đạt 16,1 tỷ USD, giảm 8,8%. Thị trường ASEAN đạt 11,1 tỷ USD, giảm 14,2%. Nhật Bản đạt 9,4 tỷ USD, giảm 2,3%. Hàn Quốc đạt 9,3 tỷ USD, tăng 2,3%.
Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 5/2020 đạt 18.176 triệu USD, thấp hơn 1.224 triệu USD so với số ước tính, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng thấp hơn 521 triệu USD; vải thấp hơn 170 triệu USD; sắt thép thấp hơn 93 triệu USD; sản phẩm chất dẻo thấp hơn 85 triệu USD; sản phẩm hóa chất thấp hơn 57 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Sáu ước tính đạt 20,5 tỷ USD, tăng 12,8% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 9,5 tỷ USD, tăng 8,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 11 tỷ USD, tăng 16,5%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Sáu tăng 5,3%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 16,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 2,7%.
Trong quý II/2020, kim ngạch nhập khẩu đạt 57,68 tỷ USD, giảm 9,1% so với cùng kỳ năm trước và giảm 3% so với quý I năm nay. Trong quý II có 13 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 69,9% tổng trị giá nhập khẩu, trong đó: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt giá trị cao nhất với 13,3 tỷ USD (chiếm 23% tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu), tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 8,6 tỷ USD, giảm 4,7%; vải đạt 2,9 tỷ USD, giảm 20,8%; điện thoại và linh kiện đạt 2,8 tỷ USD, giảm 8,7%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 117,17 tỷ USD, giảm 3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 51,55 tỷ USD, tăng 0,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 65,62 tỷ USD, giảm 5,4%.
Trong 6 tháng đầu năm 2020 có 22 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 81,2% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 27 tỷ USD (chiếm 23,1% tổng kim ngạch nhập khẩu), tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 16,9 tỷ USD, giảm 4,2%; điện thoại và linh kiện đạt 6 tỷ USD, tăng 3,7%; vải đạt 5,6 tỷ USD, giảm 15,3%; sắt thép đạt 4 tỷ USD, giảm 16,3%; chất dẻo đạt 3,9 tỷ USD, giảm 11,1%; sản phẩm chất dẻo đạt 3,2 tỷ USD, tăng 5,4%; kim loại thường đạt 2,9 tỷ USD, giảm 9%; sản phẩm hóa chất đạt 2,6 tỷ USD, tăng 4,6%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 2,5 tỷ USD, giảm 14,2%; ô tô đạt 2,4 tỷ USD, giảm 33%; hóa chất đạt 2,4 tỷ USD, giảm 8%; than đá đạt 2,2 tỷ USD, tăng 12,5%; dầu thô đạt 2,1 tỷ USD, giảm 0,1%.
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu 6 tháng đầu năm, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 109,5 tỷ USD, giảm 2,8% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 93,5% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu (tăng 0,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước), trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 54,2 tỷ USD, giảm 1,7% và chiếm 46,3% (tăng 0,7 điểm phần trăm); nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu đạt 55,3 tỷ USD, giảm 3,9% và chiếm 47,2% (giảm 0,4 điểm phần trăm). Nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt 7,7 tỷ USD, giảm 6,5% và chiếm 6,5% (giảm 0,3 điểm phần trăm).
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 6 tháng, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 34,8 tỷ USD, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc đạt 20,3 tỷ USD, giảm 10%. Thị trường ASEAN đạt 14,2 tỷ USD, giảm 11,9%. Nhật Bản đạt 9,3 tỷ USD, tăng 5,3%. Hoa Kỳ đạt 7,4 tỷ USD, tăng 7,2%. Thị trường EU đạt 7,1 tỷ USD, tăng 8,4%.
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Năm xuất siêu 1 tỷ USD[24]; 5 tháng xuất siêu 3,5 tỷ USD; tháng Sáu ước tính xuất siêu 500 triệu USD. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, cán cân thương mại hàng hóa tiếp tục xuất siêu 4 tỷ USD[25] (cùng kỳ năm trước xuất siêu 1,7 tỷ USD), trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 10,2 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 14,2 tỷ USD.
b) Xuất, nhập khẩu dịch vụ
Trong quý II/2020, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước tính đạt 951 triệu USD, giảm 79,2% so với cùng kỳ năm trước (quý I giảm 23,6%); kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước tính đạt 4 tỷ USD, giảm 25,2% (quý I giảm 3,2%).
Trong 6 tháng đầu năm 2020, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước tính đạt 4,7 tỷ USD, giảm 50,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ du lịch đạt 2,4 tỷ USD (chiếm 51,5% tổng kim ngạch), giảm 56,1%; dịch vụ vận tải đạt 636 triệu USD (chiếm 13,4%), giảm 70,6% do các đường bay quốc tế ngừng khai thác. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ 6 tháng đầu năm nay ước tính đạt 8,9 tỷ USD, giảm 14,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 3,7 tỷ USD (chiếm 41,8% tổng kim ngạch), giảm 2,4%; dịch vụ du lịch đạt 2,1 tỷ USD (chiếm 23,6%), giảm 32,6%. Nhập siêu dịch vụ trong 6 tháng đầu năm 2020 ước tính đạt 4,2 tỷ USD, bằng 88,6% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ.
5. Chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2020 tăng 0,66% so với tháng trước, chủ yếu do giá xăng dầu tăng cao 3 đợt liên tiếp sau chuỗi giảm kéo dài kể từ Tết Nguyên đán và giá thịt lợn tiếp tục tăng trong những ngày đầu tháng 6, mặc dù vậy chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2020 vẫn giảm 0,59% so với tháng 12 năm trước – mức thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020[26]. Bình quân 6 tháng đầu năm 2020, chỉ số giá tiêu dùng tăng 4,19% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2016-2020[27]. Tỷ giá thương mại hàng hóa bình quân 6 tháng đầu năm 2020 giảm 0,78% so với cùng kỳ năm 2019 phản ánh giá xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra nước ngoài không thuận lợi so với giá nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài về Việt Nam.
a) Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2020 tăng 0,66% so với tháng trước, đây là mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2016-2020[28]. Có 7/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chủ yếu có CPI tháng Sáu tăng so với tháng trước, trong đó nhóm giao thông tăng cao nhất với 6,05% do ảnh hưởng từ 2 đợt điều chỉnh tăng giá xăng, dầu vào thời điểm 28/5/2020 và 12/6/2020 làm giá xăng, dầu tăng 14,24% (tác động CPI chung tăng 0,59%). Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,44%, trong đó lương thực giảm 0,4% do giá gạo giảm 0,45%; thực phẩm tăng 0,72%[29]; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,15%. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,09% do nhu cầu tiêu dùng đồ uống giải khát trong mùa hè tăng cao[30]; nhóm thiết bị, đồ dùng gia đình tăng 0,07%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục cùng tăng 0,01%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,19%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá giảm: Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,42% chủ yếu do giá điện trong tháng giảm 2,72%[31] và giá thuê nhà ở giảm 0,09%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,04%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,01%. Riêng nhóm may mặc, mũ nón, giày dép không thay đổi.
Tính chung quý II/2020, CPI giảm 1,87% so với quý trước và tăng 2,83% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 12,12% so với cùng kỳ năm trước; nhóm giáo dục tăng 4,52%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 3,36%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,6%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,28%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,82%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,64%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,3%. Ba nhóm có CPI giảm là giao thông giảm 20,12%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,44%; bưu chính viễn thông giảm 0,56%.
CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2020 tăng 4,19% so với bình quân cùng kỳ năm 2019; CPI tháng 6/2020 giảm 0,59% so với tháng 12/2019 và tăng 3,17% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 6 tháng đầu năm nay tăng do một số nguyên nhân chủ yếu sau: (i) Giá các mặt hàng lương thực tăng 3,38% so với cùng kỳ năm trước (làm CPI chung tăng 0,15%); (ii) Giá các mặt hàng thực phẩm tăng 14,28% so với cùng kỳ năm trước (làm CPI chung tăng 3,23%), trong đó riêng giá thịt lợn tăng 68,2% (làm CPI chung tăng 2,86%); (iii) Giá các mặt hàng đồ uống, thuốc lá và các loại quần áo may sẵn tăng cao, lần lượt tăng 1,7% và 0,93% so với cùng kỳ năm 2019.
Bên cạnh đó, có một số yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI 6 tháng đầu năm: (i) Giá các mặt hàng thiết yếu như xăng, dầu giảm 19,49% (tác động làm CPI chung giảm 0,81%); giá gas trong nước giảm 3,63%; (ii) Ảnh hưởng của dịch Covid-19 và nhu cầu đi lại, du lịch của người dân sau Tết giảm làm giá của nhóm du lịch trọn gói giảm 1,49% so với cùng kỳ năm trước; giá cước vận tải của các loại phương tiện như tàu hỏa, máy bay giảm[32]; (iii) Chính phủ triển khai hàng loạt các gói hỗ trợ cho người dân và người sản xuất gặp khó khăn do dịch Covid-19 như gói hỗ trợ của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) triển khai giảm giá điện, tiền điện cho khách hàng nên giá điện tháng 5 và tháng 6 năm nay giảm lần lượt là 0,28% và 2,72% so với tháng trước; (iv) Các cấp, các ngành tích cực triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để ngăn chặn diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 và ổn định thị trường.
Lạm phát cơ bản tháng 6/2020 tăng 0,07% so với tháng trước và tăng 2,45% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 6 tháng đầu năm 2020 tăng 2,81% so với bình quân cùng kỳ năm 2019.
b) Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Giá vàng trong nước tăng theo giá vàng thế giới bởi ảnh hưởng của dịch Covid-19; căng thẳng Mỹ – Trung và các cuộc biểu tình, bạo loạn tại Mỹ khiến vàng trở thành kênh đầu tư an toàn. Bình quân giá vàng thế giới đến ngày 24/6/2020 tăng 0,62% so với tháng 5/2020. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 6/2020 tăng 1,71% so với tháng trước; tăng 16,81% so với tháng 12/2019 và tăng 30,18% so với cùng kỳ năm trước.
Đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới giảm trước hàng loạt thông tin kinh tế quan trọng của nước Mỹ được công bố không mấy khả quan. Trong nước, lượng dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dồi dào đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 6/2020 giảm 0,58% so với tháng trước; tăng 0,47% so với tháng 12/2019 và giảm 0,59% so với cùng kỳ năm 2019.
c) Chỉ số giá sản xuất
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý II/2020 tăng 0,82% so với quý trước và tăng 8,31% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp tăng 2,26% và tăng 12,39%; lâm nghiệp giảm 0,29% và giảm 0,48%; thủy sản giảm 0,33% và giảm 2,4%. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 7,13% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp tăng 10,09%; lâm nghiệp giảm 0,29%; thủy sản giảm 0,67%.
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp quý II/2020 giảm 1,66% so với quý trước và giảm 1,69% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng giảm 18,76% và giảm 19,31%; sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,93% và giảm 0,81%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 1,73% và giảm 3,38%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,83% và tăng 3,17%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp giảm 0,33% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng giảm 7,37%; sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,12%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 0,21%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,76%.
Chỉ số giá sản xuất dịch vụ quý II/2020 giảm 1,96% so với quý trước và giảm 0,87% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất dịch vụ của một số ngành như sau: Dịch vụ vận tải, kho bãi giảm 5,86% và giảm 7,74%; dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 0,99% và giảm 0,19%; giáo dục và đào tạo giảm 0,08% và tăng 4,32%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 0,05% và tăng 3,56%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 0,07% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó chỉ số giá sản xuất dịch vụ ngành giáo dục và đào tạo tăng 4,23%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 3,57%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 0,74%; vận tải, kho bãi giảm 4,87%.
d) Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá quý II/2020 giảm 1,74% so với quý trước và giảm 1,91% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm giảm 2,07% và giảm 3,27%; nhóm nhiên liệu giảm 30,63% và giảm 38,23%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo giảm 0,35% và tăng 0,07%. Chỉ số giá xuất khẩu quý II so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước của một số mặt hàng như sau: Dầu thô giảm 34,72% và giảm 43,73%; xăng, dầu các loại giảm 25,7% và giảm 29,76%; quặng và khoáng sản giảm 7,93% và tăng 6,39%; sắt thép giảm 5,41% và giảm 7,34%; thủy sản giảm 4,94% và giảm 7,16%; sản phẩm từ hóa chất tăng 5,96% và tăng 1,19%; gạo tăng 2,29% và tăng 3,73%; chè tăng 1,88% và tăng 8,81%. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá giảm 1,22% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm giảm 2,34%; nhóm nhiên liệu giảm 25,13%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo tăng 0,01%. Chỉ số giá xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2020 của một số mặt hàng: Dầu thô giảm 29,83%; xăng, dầu các loại giảm 17,13%; cà phê giảm 6,16%; thủy sản giảm 4,71%; sắt thép giảm 4,36%; quặng và khoáng sản tăng 14,65%; chè tăng 7,6%; đá quý và kim loại quý tăng 6,41%; cao su tăng 1,86%.
Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá quý II/2020 giảm 0,74% so với quý trước và giảm 0,98% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó chỉ số giá nhập khẩu của nhóm nông sản, thực phẩm tăng 0,87% và tăng 0,96%; nhóm nhiên liệu giảm 10,71% và giảm 11,54%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo giảm 0,32% và giảm 0,54%. Chỉ số giá nhập khẩu quý II của một số mặt hàng như sau: Khí đốt hóa lỏng giảm 28,67% so với quý trước và giảm 28,48% so với cùng kỳ năm trước; xăng dầu các loại giảm 10,72% và giảm 12,21%; dầu mỡ động thực vật tăng 11,14% và tăng 11,41%; lúa mỳ tăng 2,46% và giảm 0,12%. Tính chung 6 tháng, chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá giảm 0,45% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm tăng 0,98%; nhóm nhiên liệu giảm 3,74%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo giảm 0,37%. Chỉ số giá nhập khẩu 6 tháng của một số mặt hàng: Khí đốt hóa lỏng giảm 12,8%; hóa chất giảm 6,42%; xăng dầu các loại giảm 3,9%; rau quả tăng 6,32%; dầu mỡ động thực vật tăng 4,91%; nguyên phụ liệu dược phẩm tăng 3,87%.
Tỷ giá thương mại hàng hóa[33] quý II/2020 giảm 1% so với quý trước và giảm 0,94% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, tỷ giá thương mại hàng hoá giảm 0,78% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó tỷ giá thương mại hàng hóa của mặt hàng xăng dầu các loại giảm 13,77%; sắt, thép giảm 4,15%; thủy sản giảm 3,41%; rau quả giảm 2,96%; hóa chất tăng 6,87%; cao su tăng 5,12%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 1,67%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 1,21%.
[19] Tăng trưởng tín dụng tính đến thời điểm 19/6 các năm 2016-2020 lần lượt là: 6,2%; 7,54%; 6,35%; 6,22%; 2,45%.
[20] Tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn NSNN tháng Sáu so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020: Năm 2016 tăng 10,5%; năm 2017 tăng 8,4%; năm 2018 tăng 10,2%; năm 2019 tăng 4,4%; năm 2020 tăng 28,5%. Tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn NSNN 6 tháng so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020: Năm 2016 tăng 11,7%; năm 2017 tăng 6,1%; năm 2018 tăng 9,5%; năm 2019 tăng 4,2%; năm 2020 tăng 19,2%.
[21] Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 6 tháng đầu năm các năm 2016-2020 lần lượt là: 7,3 tỷ USD; 7,7 tỷ USD; 8,4 tỷ USD; 9,1 tỷ USD; 8,7 tỷ USD.
[22] Ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí có 3 dự án điều chỉnh vốn làm giảm 152,8 triệu USD.
[23] Số liệu tháng 6/2020 do Tổ liên ngành gồm Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục Hải Quan – Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê ước tính căn cứ trên số liệu kim ngạch xuất, nhập khẩu kỳ I trong tháng (từ ngày 01 đến ngày 15) của Tổng cục Hải quan kết hợp với thông tin thị trường, tỷ trọng và xu hướng xuất, nhập khẩu các mặt hàng.
[24] Ước tính tháng Năm nhập siêu 900 triệu USD.
[25] Trong đó, 6 tháng đầu năm 2020 xuất siêu sang EU đạt 9 tỷ USD, giảm 18,9% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 15,3 tỷ USD, giảm 19,3%; nhập siêu từ Hàn Quốc 11 tỷ USD, giảm 18,3%; nhập siêu từ ASEAN 3,1 tỷ USD, giảm 2,4%.
[26] Tốc độ tăng/giảm CPI tháng Sáu so với tháng 12 năm trước của các năm giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: tăng 2,35%; tăng 0,2%; tăng 2,22%; tăng 1,41%; giảm 0,59%.
[27] Tốc độ tăng CPI bình quân 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020 lần lượt là: 1,72%; 4,15%; 3,29%; 2,64%; 4,19%.
[28] Tốc độ tăng/giảm CPI tháng Sáu so với tháng trước của các năm giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: tăng 0,46%; giảm 0,17%; tăng 0,61%; giảm 0,09%; tăng 0,66%.
[29] Chủ yếu do giá thịt lợn tăng 3,36% (làm CPI chung tăng 0,14%); giá thịt chế biến tăng 2,04%, mỡ ăn tăng 4,93%; giá thịt gia cầm khác (ngan, vịt) tăng 2,19%; giá quả tươi, chế biến tăng 0,53%.
[30] Giá nước khoáng tăng 0,05%, giá nước quả ép tăng 0,24%, giá nước uống tăng lực đóng chai tăng 0,11%.
[31] Thực hiện Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 năm 2020 và công văn số 2698/BCT-ĐTĐL ngày 16/4/2020 của Bộ Công Thương về việc hỗ trợ giảm giá điện, giảm tiền điện cho các khách hàng sử dụng điện bị ảnh hưởng của dịch Covid-19, dựa trên sản lượng và doanh thu điện sinh hoạt từ ngày 01/5/2020 đến này 30/5/2020.
[32] Giá vé máy bay giảm 29,8% so với cùng kỳ năm trước.
[33] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.