5. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Thực hiện Nghị định số 41/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 của Chính phủ về việc gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất cho các doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân kinh doanh bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, tiến độ thu ngân sách Nhà nước trong 15 ngày đầu tháng 7/2020 đạt thấp so với cùng kỳ năm trước. Chi ngân sách Nhà nước tập trung bảo đảm các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn và hỗ trợ đối tượng bị ảnh hưởng của dịch Covid-19.
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/7/2020 ước tính đạt 697,5 nghìn tỷ đồng, bằng 46,1% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 577,3 nghìn tỷ đồng, bằng 45,7%; thu từ dầu thô 21,9 nghìn tỷ đồng, bằng 62,1%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 98 nghìn tỷ đồng, bằng 47,1%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 67 nghìn tỷ đồng, bằng 37,7% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 96,8 nghìn tỷ đồng, bằng 42,3%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 103,2 nghìn tỷ đồng, bằng 38,1%; thu thuế thu nhập cá nhân 66,7 nghìn tỷ đồng, bằng 51,8%; thu thuế bảo vệ môi trường 30 nghìn tỷ đồng, bằng 44,3%; thu tiền sử dụng đất 71,1 nghìn tỷ đồng, bằng 74,1%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/7/2020 ước tính đạt 798,6 nghìn tỷ đồng, bằng 45,7% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 552,5 nghìn tỷ đồng, bằng 52,3%; chi đầu tư phát triển 176,4 nghìn tỷ đồng, bằng 37,5%; chi trả nợ lãi 64,6 nghìn tỷ đồng, bằng 54,6%.
6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Hoạt động thương mại và dịch vụ tháng 7/2020 tiếp tục xu hướng tăng trở lại nhờ các chính sách kích cầu tiêu dùng và du lịch nội địa, cùng với các gói hỗ trợ của Chính phủ giúp người dân giảm bớt gánh nặng chi tiêu, đồng thời đây cũng là tháng học sinh, sinh viên trong kỳ nghỉ hè nên nhiều gia đình tổ chức đi du lịch trong nước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Bảy tăng 3,3% so với tháng trước và tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên tính chung 7 tháng năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng vẫn giảm 0,4%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Bảy ước tính đạt 431,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3,3% so với tháng trước và tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 333,8 nghìn tỷ đồng, tăng 2,6% và tăng 7%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 48,2 nghìn tỷ đồng, tăng 9,2% và giảm 4,4%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 1,5 nghìn tỷ đồng, tăng 29,6% và giảm 59,7%; doanh thu dịch vụ khác đạt 48,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2% và tăng 0,9%.
Tính chung 7 tháng năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 2.799,6 nghìn tỷ đồng, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 4,8% (cùng kỳ năm 2019 tăng 9%).
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 7 tháng đạt 2.218 nghìn tỷ đồng, chiếm 79,2% tổng mức và tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước do tháng Bảy là tháng khuyến mại tập trung quốc gia 2020 nhằm kích cầu tiêu dùng nội địa, mở rộng thị trường, khôi phục lại nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Trong đó, đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 7,6%; lương thực, thực phẩm tăng 7,5%; may mặc tăng 0,3%; phương tiện đi lại giảm 6,4%; vật phẩm văn hoá, giáo dục giảm 1,9%. Một số địa phương có mức doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Hải Phòng tăng 10,6%; Đồng Nai tăng 9,8%; Hà Nội tăng 9,1%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 8,2%; Bình Định tăng 6,3%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 3,5%; Thanh Hóa tăng 0,7%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 7 tháng năm nay ước tính đạt 280,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 10% tổng mức và giảm 16,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,1%). Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 7 tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương: Khánh Hòa giảm 59,1%; Bà Rịa – Vũng Tàu giảm 46,5%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 45,1%; Cần Thơ giảm 27,5%; Đà Nẵng giảm 24,5%; Thanh Hóa giảm 21,5%; Hà Nội giảm 18,9%; Đồng Tháp giảm 12,4%; Quảng Ninh giảm 11,8%; Hải Phòng giảm 10%.
Doanh thu du lịch lữ hành 7 tháng ước tính đạt 11,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,4% tổng mức và giảm 55,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,1%) do học sinh và sinh viên bước vào giai đoạn nghỉ hè, cùng với chính sách kích cầu du lịch nội địa được tăng cường nên mức giảm của doanh thu du lịch lữ hành đã thu hẹp lại. Một số địa phương có doanh thu du lịch lữ hành 7 tháng giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước: Khánh Hòa giảm 76,4%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 74,9%; Bà Rịa – Vũng Tàu giảm 63,3%; Đà Nẵng giảm 58,6%; Cần Thơ giảm 57,1%; Quảng Ninh giảm 50,5%; Quảng Bình giảm 48,6%; Hà Nội giảm 38,6%; Thanh Hóa giảm 38,5%; Bình Định giảm 38%; Hải Phòng giảm 23,7%.
Doanh thu dịch vụ khác 7 tháng ước tính đạt 289,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,4% tổng mức và giảm 5,9% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó doanh thu của Đà Nẵng giảm 12,1%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 8,8%; Hà Nội giảm 6,7%; Cần Thơ giảm 6,2%; Hải Phòng giảm 4,9%.
b) Xuất, nhập khẩu hàng hóa[10]
Dịch Covid-19 ngày càng lan nhanh trên thế giới, tiếp tục gây ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 7 tháng năm 2020 ước tính đạt 285,12 tỷ USD, giảm 1,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 145,79 tỷ USD, tăng nhẹ 0,2%; nhập khẩu đạt 139,33 tỷ USD, giảm 2,9%[11]. Khu vực kinh tế trong nước là điểm sáng trong hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam khi kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu 7 tháng đều tăng so với cùng kỳ năm trước, xuất khẩu đạt 50,76 tỷ USD, tăng cao 13,5%; nhập khẩu đạt 61,86 tỷ USD, tăng 1,5%. Cán cân thương mại hàng hóa 7 tháng ước tính xuất siêu 6,5 tỷ USD.
Xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thực hiện tháng 6/2020 đạt 22.565 triệu USD, cao hơn 1.565 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại và linh kiện cao hơn 448 triệu USD; hàng dệt may cao hơn 402 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 197 triệu USD; sắt thép cao hơn 137 triệu USD; đá quý, kim loại quý và sản phẩm cao hơn 108 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng cao hơn 107 triệu USD.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 7/2020 ước tính đạt 23 tỷ USD, tăng 1,9% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 8,5 tỷ USD, tăng 2,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 14,5 tỷ USD, tăng 1,5%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu tháng 7/2020 tăng nhẹ 0,3%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 10,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 4,9%.
Tính chung 7 tháng năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 145,79 tỷ USD, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước tiếp tục là điểm sáng với kim ngạch xuất khẩu ước đạt 50,76 tỷ USD, tăng 13,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 95,03 tỷ USD (chiếm 65,2% tổng kim ngạch xuất khẩu), giảm 5,7%.
Trong 7 tháng có 23 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 87% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó: Điện thoại và linh kiện đạt 25,7 tỷ USD, giảm 6,6% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 23,1 tỷ USD, tăng 24,3%; hàng dệt may đạt 16,2 tỷ USD, giảm 12,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 12,4 tỷ USD, tăng 27,1%; giày dép đạt 9,5 tỷ USD, giảm 7,9%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 6,1 tỷ USD, tăng 6,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 4,4 tỷ USD, giảm 12,3%; thủy sản đạt 4,4 tỷ USD, giảm 6,4%; sắt thép đạt 2,5 tỷ USD, giảm 2,7%. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu của đa số các mặt hàng nông sản đều giảm so với cùng kỳ năm trước: Rau quả đạt 2 tỷ USD, giảm 12,3%; cà phê đạt 1,8 tỷ USD, giảm 0,5% (lượng giảm 0,1%); hạt điều đạt 1,7 tỷ USD, giảm 4% (lượng tăng 10,4%); cao su đạt 855 triệu USD, giảm 20,3% (lượng giảm 15,1%); hạt tiêu đạt 405 triệu USD, giảm 20,6% (lượng giảm 6,5%). Duy nhất sản phẩm gạo đạt 1,9 tỷ USD, tăng 10,9% (lượng giảm 1,4%).
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 7 tháng, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 76,5 tỷ USD, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 52,5% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa (tăng 1,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2019). Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp ước tính đạt 53,3 tỷ USD, giảm 1,6% và chiếm 36,6% (giảm 0,7 điểm phần trăm). Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 11,6 tỷ USD, giảm 3,7% và chiếm 8% (giảm 0,3 điểm phần trăm). Nhóm hàng thủy sản đạt 4,4 tỷ USD, giảm 6,4% và chiếm 3% (giảm 0,2 điểm phần trăm).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong 7 tháng với kim ngạch đạt 37,9 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là Trung Quốc đạt 23,5 tỷ USD, tăng 18,4%. Thị trường EU đạt 19,5 tỷ USD, giảm 5,9%. Thị trường ASEAN đạt 12,8 tỷ USD, giảm 15,4%. Nhật Bản đạt 10,9 tỷ USD, giảm 5%. Hàn Quốc đạt 10,7 tỷ USD, giảm 0,4%.
Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa thực hiện tháng 6/2020 đạt 20.713 triệu USD, cao hơn 213 triệu USD so với số ước tính, trong đó thức ăn gia súc cao hơn 160 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 137 triệu USD; điện thoại và linh kiện thấp hơn 62 triệu USD.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 7/2020 ước tính đạt 22 tỷ USD, tăng 6,2% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 10,2 tỷ USD, tăng 5,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 11,8 tỷ USD, tăng 6,5%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu tháng 7/2020 ước tính giảm 2,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 8,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 10,9%.
Tính chung 7 tháng năm 2020, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 139,33 tỷ USD, giảm 2,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 61,86 tỷ USD, tăng 1,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 77,47 tỷ USD, giảm 6,2%.
Trong 7 tháng có 25 mặt hàng đạt kim ngạch nhập khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 83,6% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 32,6 tỷ USD (chiếm 23,4% tổng kim ngạch nhập khẩu), tăng 14% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 19,9 tỷ USD, giảm 4%; điện thoại và linh kiện đạt 7,1 tỷ USD, giảm 2,4%; vải đạt 6,6 tỷ USD, giảm 14,9%; sắt thép đạt 4,8 tỷ USD, giảm 14,1%; chất dẻo đạt 4,6 tỷ USD, giảm 12,4%; sản phẩm chất dẻo đạt 3,9 tỷ USD, tăng 5,8%; kim loại thường đạt 3,2 tỷ USD, giảm 12,8%; sản phẩm hóa chất đạt 3,1 tỷ USD, tăng 2,8%; ô tô đạt 2,9 tỷ USD, giảm 32,6%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 2,9 tỷ USD, giảm 15,5%.
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu 7 tháng, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 130,25 tỷ USD, giảm 2,6% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 93,5% tổng kim ngạch nhập khẩu; nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt 9,08 tỷ USD, giảm 7,3% và chiếm 6,5%.
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu trong 7 tháng, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước tính đạt 41,6 tỷ USD, giảm 1,8% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc đạt 24,3 tỷ USD, giảm 9,2%; ASEAN đạt 16,7 tỷ USD, giảm 11,3%; Nhật Bản đạt 11,2 tỷ USD, tăng 5,1%; Hoa Kỳ đạt 8,3 tỷ USD, tăng 2,5%; EU đạt 8,3 tỷ USD, tăng 6%.
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng 6/2020 xuất siêu 1,9 tỷ USD[12]; 6 tháng xuất siêu 5,5 tỷ USD; tháng Bảy ước tính xuất siêu 1 tỷ USD. Tính chung 7 tháng năm 2020, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 6,5 tỷ USD[13], trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 11,1 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 17,6 tỷ USD.
c) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7/2020 tăng 0,4% so với tháng trước, chủ yếu do giá xăng dầu trong nước biến động tăng theo giá xăng dầu thế giới và nhu cầu sử dụng điện, nước tăng cao trong thời gian nắng nóng kéo dài. Mặc dù vậy, chỉ số giá tiêu dùng tháng 7/2020 vẫn giảm 0,19% so với tháng 12 năm trước – mức thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020[14]. Bình quân 7 tháng năm 2020, chỉ số giá tiêu dùng tăng 4,07% so với cùng kỳ năm trước.
Trong mức tăng 0,4% của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2020 so với tháng trước có 9/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, trong đó: Nhóm giao thông tăng nhiều nhất với 3,91% do ảnh hưởng của đợt điều chỉnh tăng giá xăng, dầu vào thời điểm 27/6/2020 làm chỉ số giá xăng, dầu tăng 9,02% (tác động làm CPI chung tăng 0,37%). Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,47%, chủ yếu do giá điện, nước sinh hoạt tăng lần lượt là 2% và 0,25% khi nhu cầu sử dụng điện, nước tăng mạnh vào thời điểm thời tiết nắng nóng và do giá gas tăng 1,13%, giá dầu hỏa tăng 8,2%. Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,3% do đây là tháng học sinh, sinh viên bước vào kỳ nghỉ hè nên nhu cầu vui chơi giải trí tăng cao[15]. Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,07%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,06%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,02% do thời tiết nắng nóng kéo dài nên nhu cầu tiêu dùng đồ uống, giải khát tăng (giá nước giải khát có ga tăng 0,11%, giá nước quả ép tăng 0,06%); nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục cùng mức tăng 0,02%; nhóm hàng hóa, dịch vụ khác tăng 0,17%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm: hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,18% (trong đó: lương thực giảm 0,2% do giá gạo giảm 0,33%; thực phẩm giảm 0,3%[16]); nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,02%.
CPI bình quân 7 tháng năm 2020 tăng 4,07% so với bình quân cùng kỳ năm 2019; CPI tháng 7/2020 giảm 0,19% so với tháng 12/2019 và tăng 3,39% so với cùng kỳ năm trước.
Lạm phát cơ bản tháng 7/2020 tăng 0,09% so với tháng trước và tăng 2,31% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 7 tháng năm 2020 tăng 2,74% so với bình quân cùng kỳ năm 2019.
Giá vàng trong nước tăng theo giá vàng thế giới do tình hình kinh tế thế giới dự báo tiêu cực, dịch Covid-19 tiếp tục lan nhanh, các nước đều đưa ra các gói kích thích kinh tế. Bình quân giá vàng thế giới đến ngày 24/7/2020 tăng 4,31% so với tháng 6/2020, cao nhất trong vòng 9 năm kể từ năm 2012. Trong nước, lãi suất tiết kiệm giảm mạnh, trái phiếu doanh nghiệp tiềm ẩn rủi ro, dẫn đến nhu cầu mua các loại tài sản an toàn như vàng tăng cao. Chỉ số giá vàng tháng 7/2020 tăng 3,49% so với tháng trước; tăng 20,89% so với tháng 12/2019 và tăng 28,57% so với cùng kỳ năm trước.
Đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới vẫn giảm, tỷ giá USD chưa có dấu hiệu phục hồi do những lo ngại về việc Đảng Cộng hòa và Dân chủ của Mỹ đang mâu thuẫn trong việc thống nhất các biện pháp kích thích kinh tế tiếp theo của nước này. Trong nước, lượng dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dồi dào đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 7/2020 giảm 0,23% so với tháng trước; tăng 0,24% so với tháng 12/2019 và giảm 0,32% so với cùng kỳ năm trước.
d) Vận tải hành khách và hàng hóa
Hoạt động vận tải trong nước tháng Bảy sôi động hơn với mức tăng 7,8% lượng hành khách vận chuyển và tăng 4% lượng hàng hóa vận chuyển so với tháng trước do tình hình dịch Covid-19 trong nước đã được kiểm soát tốt và thời điểm này đang vào mùa du lịch nội địa nên lượng khách đi lại tăng cao. Tuy nhiên, vận tải ngoài nước của các hãng hàng không tiếp tục gặp nhiều khó khăn do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 ở các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tính chung 7 tháng năm 2020, vận chuyển hành khách giảm 26,7% và vận chuyển hàng hóa giảm 7,3% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hành khách tháng Bảy ước tính đạt 318,2 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 7,8% so với tháng trước và luân chuyển 16,4 tỷ lượt khách.km, tăng 18,4%. Tính chung 7 tháng, vận tải hành khách đạt 2.128,8 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 26,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,1%) và luân chuyển 100 tỷ lượt khách.km, giảm 30,3% (cùng kỳ năm trước tăng 9,7%), trong đó vận tải trong nước đạt 2.126,1 triệu lượt khách, giảm 26,5% và 90,5 tỷ lượt khách.km, giảm 20,4%; vận tải ngoài nước đạt 2,7 triệu lượt khách, giảm 72,9% và 9,5 tỷ lượt khách.km, giảm 68,2%. Xét theo ngành vận tải, tất cả các ngành đường đều giảm do ảnh hưởng của dịch Covid-19, trong đó vận tải hành khách đường bộ 7 tháng đạt 1.988,6 triệu lượt khách, giảm 27,3% so với cùng kỳ năm trước và 72,5 tỷ lượt khách.km, giảm 22,7%; đường thủy nội địa đạt 113,2 triệu lượt khách, giảm 8,2% và gần 2,4 tỷ lượt khách.km, giảm 9%; hàng không đạt 20,8 triệu lượt khách, giảm 35,8% và 23,8 tỷ lượt khách.km, giảm 46,7%; đường biển đạt 3,7 triệu lượt khách, giảm 24% và 220,5 triệu lượt khách.km, giảm 16,9%; đường sắt đạt 2,5 triệu lượt khách, giảm 51,8% và 1.099,6 triệu lượt khách.km, giảm 49,7%.
Vận tải hàng hóa tháng Bảy ước tính đạt 147,2 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 4% so với tháng trước và luân chuyển 29,5 tỷ tấn.km, tăng 3,6%. Tính chung 7 tháng, vận tải hàng hóa đạt 957,6 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, giảm 7,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 8,7%) và luân chuyển 189,3 tỷ tấn.km, giảm 6,4% (cùng kỳ năm trước tăng 7,2%), trong đó vận tải trong nước đạt 936,5 triệu tấn, giảm 7,3% và 97,7 tỷ tấn.km, giảm 11,3%; vận tải ngoài nước đạt 21,1 triệu tấn, giảm 4,8% và 91,7 tỷ tấn.km, giảm 0,5%. Xét theo ngành vận tải, vận tải hàng hóa đường bộ 7 tháng đạt 738,6 triệu tấn, giảm 7,9% so với cùng kỳ năm trước và 51,3 tỷ tấn.km, giảm 11,2%; đường thủy nội địa đạt 170,3 triệu tấn, giảm 5,5% và 37,2 tỷ tấn.km, giảm 4,6%; đường biển đạt 45,5 triệu tấn, giảm 3,9% và 96,4 tỷ tấn.km, giảm 2,6%; đường sắt đạt 2,9 triệu tấn, giảm 2,8% và 2,1 tỷ tấn.km, giảm 1,2%; đường hàng không đạt 164,1 nghìn tấn, giảm 33,5% và 2,4 tỷ tấn.km, giảm 46,2%.
e) Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Bảy đạt 13,9 nghìn lượt người, tăng 58,7% so với tháng trước, chủ yếu là khách quốc tế nhập cảnh bằng đường bộ nhưng vẫn giảm 98,9% so với cùng kỳ năm 2019 do Việt Nam tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, chưa mở cửa du lịch quốc tế. Tính chung 7 tháng năm nay, khách quốc tế đến nước ta chỉ đạt gần 3,8 triệu lượt người, giảm 61,6% so với cùng kỳ năm trước.
Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Bảy ước tính đạt 13,9 nghìn lượt người, tăng 58,7% so với tháng trước và giảm 98,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2020, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 3.758,4 nghìn lượt người, giảm 61,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 3.043,5 nghìn lượt người, chiếm 81% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, giảm 60,5%; bằng đường bộ đạt 570,5 nghìn lượt người, chiếm 15,2% và giảm 70,5%; bằng đường biển đạt 144,4 nghìn lượt người, chiếm 3,8% và giảm 8,4%.
Trong 7 tháng năm nay, khách đến từ châu Á đạt 2.742,9 nghìn lượt người, chiếm 73% tổng số khách quốc tế đến nước ta, giảm 63,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khách đến từ hầu hết các thị trường chính đều giảm mạnh: Trung Quốc đạt 926,5 nghìn lượt người, giảm 67,9% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc 824,1 nghìn lượt người, giảm 65,7%; Nhật Bản 202 nghìn lượt người, giảm 61,5%; Đài Loan 192,8 nghìn lượt người, giảm 62,7%; Ma-lai-xi-a 116,6 nghìn lượt người, giảm 65,4%; riêng khách đến từ Cam-pu-chia đạt 120,5 nghìn lượt người, tăng 88,9%.
Khách đến từ châu Âu trong 7 tháng ước tính đạt 666,6 nghìn lượt người, giảm 48,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Liên bang Nga 245,8 nghìn lượt người, giảm 38,1%; Vương quốc Anh 81,6 nghìn lượt người, giảm 56,4%; Pháp 74,6 nghìn lượt người, giảm 57,3%; Đức 61,5 nghìn lượt người, giảm 53,8%. Khách đến từ châu Mỹ ước tính đạt 234,5 nghìn lượt người, giảm 61,4% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là khách đến từ Hoa Kỳ đạt 172,9 nghìn lượt người, giảm 62,9%. Khách đến từ châu Úc đạt 102,3 nghìn lượt người, giảm 61,3%, trong đó khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt 92,4 nghìn lượt người, giảm 60,7%. Khách đến từ châu Phi đạt 12,1 nghìn lượt người, giảm 54% so với cùng kỳ năm 2019.
7. Một số tình hình xã hội
a) Thiếu đói trong nông dân
Trong tháng Bảy, đời sống nông dân tiếp tục được cải thiện, thiếu đói không phát sinh trên phạm vi cả nước. Tính chung 7 tháng năm nay, cả nước có 16,5 nghìn lượt hộ thiếu đói, tương ứng với 66,5 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, cùng giảm 74,9% về số lượt hộ thiếu đói và nhân khẩu thiếu đói so với cùng kỳ năm trước. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 733,6 tấn gạo.
b) Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong tháng (19/6-18/7/2020), cả nước có 5.848 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 3.550 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 55 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút; 1 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu; 169 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 15 trường hợp dương tính. Tính chung 7 tháng năm 2020, cả nước có 37,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (3 trường hợp tử vong); 9.243 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 295 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút (7 trường hợp tử vong); 7 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu; 2.587 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 223 trường hợp dương tính.
Bệnh bạch hầu tiếp tục bùng phát và lan rộng tại các tỉnh Tây Nguyên. Tính đến ngày 16/7/2020, cả nước có 100 trường hợp dương tính với bạch hầu (3 trường hợp tử vong), trong đó: Đắk Nông 30 trường hợp (2 trường hợp tử vong); Kon Tum 29 trường hợp; Gia Lai 24 trường hợp (1 trường hợp tử vong); Đắk Lắk 17 trường hợp.
Dịch Covid-19 trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp[17]. Tại Việt Nam, trong tháng đã xuất hiện ca nhiễm bệnh mới trong cộng đồng, tính đến 9h00 ngày 27/7/2020 có 420 trường hợp mắc (365 trường hợp đã được chữa khỏi).
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/7/2020 là 210.547 người; số người đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 97.027 người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 98.948 người.
Về ngộ độc thực phẩm, trong tháng Bảy xảy ra 10 vụ với 122 người bị ngộ độc (4 người tử vong). Tính chung 7 tháng năm 2020, cả nước xảy ra 50 vụ với 1.209 người bị ngộ độc (19 người tử vong).
c) Tai nạn giao thông
Trong tháng (từ 15/6 đến 14/7), trên địa bàn cả nước xảy ra 1.206 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 715 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 491 vụ va chạm giao thông, làm 549 người chết, 435 người bị thương và 476 người bị thương nhẹ. So với tháng trước, tai nạn giao thông trong tháng Bảy tăng cả về số vụ, số người chết và số người bị thương, tương ứng lần lượt là tăng 6,3%; tăng 12,3% và tăng 4,6%. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Bảy giảm 16% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 11,3% và số vụ va chạm giao thông giảm 21,9%); số người chết giảm 16,4%; số người bị thương giảm 6% và số người bị thương nhẹ giảm 25,6%. Đáng lưu ý là trong tháng đã xảy ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng: Vụ tai nạn xảy ra ngày 2/7 tại Vĩnh Phúc giữa xe tải và xe máy làm 3 người chết; vụ tai nạn xe ô tô xảy ra ngày 10/7 tại Quảng Ninh làm 3 người chết và 1 người bị thương; vụ tai nạn ô tô xảy ra ngày 11/7 tại Kon Tum làm 4 người chết và 32 người bị thương; vụ tai nạn xảy ra ngày 21/7 tại Bình Thuận giữa xe ô tô khách 16 chỗ và xe ô tô tải làm 8 người chết và nhiều người bị thương; vụ tai nạn ô tô xảy ra ngày 26/7 tại Quảng Bình làm 15 người chết và 21 người bị thương.
Tính chung 7 tháng năm 2020, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 7.996 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 4.579 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 3.417 vụ va chạm giao thông, làm 3.791 người chết, 2.366 người bị thương và 3.484 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 7 tháng giảm 18,6% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 12,1%; số vụ va chạm giao thông giảm 25,9%); số người chết giảm 15,1%; số người bị thương giảm 15% và số người bị thương nhẹ giảm 25,5%. Bình quân 1 ngày trong 7 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 38 vụ tai nạn giao thông, gồm 22 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 16 vụ va chạm giao thông, làm 18 người chết, 11 người bị thương và 16 người bị thương nhẹ.
d) Thiệt hại do thiên tai
Thiên tai xảy ra trong tháng Bảy (từ ngày 18/6 đến 17/7) chủ yếu là mưa đá, mưa lớn, sạt lở và xâm nhập mặn tại một số địa phương làm 5 người chết và 11 người bị thương; 53 ngôi nhà bị sập và 771 ngôi nhà bị tốc mái, hư hỏng; 11,9 nghìn ha lúa và 24,7 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng, tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong tháng là hơn 1.687 tỷ đồng. Riêng lũ quét tại tỉnh Hà Giang xảy ra ngày 20-21/7/2020 làm 5 người chết, 2 người bị thương; 2 ngôi nhà bị sập, cuốn trôi; 2.864 ngôi nhà bị ngập, hư hỏng; 456 ha lúa, hoa màu và cây lâm nghiệp bị hư hỏng; 237 con gia súc bị chết; 3 cầu treo dân sinh bị sập, cuốn trôi; 2 nhà máy thủy điện (Thái An và Thuận Hòa) bị dừng hoạt động; ước tính tổng giá trị thiệt hại về tài sản là 495 tỷ đồng, trong đó thiệt hại 2 nhà máy thủy điện là 370 tỷ đồng. Tính chung 7 tháng năm 2020, thiên tai làm 45 người chết và mất tích, 144 người bị thương; 130 nghìn ha lúa và 60,5 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; 1.220 ngôi nhà bị sập đổ; 64,8 nghìn ngôi nhà bị hư hỏng, tổng giá trị thiệt hại về tài sản ước tính hơn 6,4 nghìn tỷ đồng.
e) Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Trong tháng 7/2020, cơ quan chức năng đã phát hiện 1.701 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 1.699 vụ với tổng số tiền phạt là 13,2 tỷ đồng. Tính chung 7 tháng năm nay đã phát hiện 6.729 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 6.157 vụ với tổng số tiền phạt là hơn 102,9 tỷ đồng.
Trong tháng, cả nước xảy ra 270 vụ cháy, nổ, làm 11 người chết và 8 người bị thương, thiệt hại ước tính gần 32,8 tỷ đồng. Tính chung 7 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 1.779 vụ cháy, nổ, làm 59 người chết và 119 người bị thương, thiệt hại ước tính 369,4 tỷ đồng./.
[8] Ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí có 3 dự án điều chỉnh vốn làm giảm 152,8 triệu USD.
[9] Số liệu đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài phân theo ngành kinh tế 7 tháng năm 2020 có sự điều chỉnh do Bộ Kế hoạch và Đầu tư rà soát lại mục tiêu các dự án và điều chỉnh giữa các ngành.
[10] Số liệu tháng 7/2020 do Tổ liên ngành gồm Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính (Tổng cục Hải Quan) và Tổng cục Thống kê ước tính căn cứ trên số liệu kim ngạch xuất, nhập khẩu kỳ I trong tháng (từ ngày 01 đến ngày 15) của Tổng cục Hải quan kết hợp với thông tin thị trường, tỷ trọng và xu hướng xuất, nhập khẩu các mặt hàng.
[11] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 7 tháng năm 2019 đạt 289 tỷ USD, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 145,5 tỷ USD, tăng 7,8%; nhập khẩu đạt 143,5 tỷ USD, tăng 8,4%.
[12] Ước tính xuất siêu 500 triệu USD.
[13] Trong đó, xuất siêu sang EU đạt 11,2 tỷ USD, giảm 13,2% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 18,1 tỷ USD, giảm 19,5%; nhập siêu từ Hàn Quốc 13,6 tỷ USD, giảm 15,1%; nhập siêu từ ASEAN 3,9 tỷ USD, tăng 5,3%.
[14] Tốc độ tăng/giảm CPI tháng Bảy so với tháng 12 năm trước của các năm giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: tăng 2,48%; tăng 0,31%; tăng 2,13%; tăng 1,59%; giảm 0,19%.
[15] Giá du lịch trọn gói trong nước tăng 0,8%; khách sạn tăng 0,67%; dịch vụ thể thao tăng 0,79%, đồ chơi tăng 0,24%.
[16] Trong đó: giá thịt lợn giảm 2,48%; giá thủy sản tươi sống giảm 0,45%; giá thủy sản chế biến giảm 0,21%; giá trứng giảm 0,75%; giá các loại hạt và đậu giảm 0,18%; giá quả tươi, chế biến giảm 0,33%.
[17] Tính đến 9h00 ngày 27/7/2020, trên thế giới có 16.412,8 nghìn trường hợp mắc Covid-19 (652 nghìn trường hợp tử vong).