QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Ts. Đỗ nhất Hoàng
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ trương hợp tác đầu tư với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường xuất khẩu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đã được xác định và cụ thể hoá trong các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam được ban hành từ cuối năm 1987 đã thể chế hóa đường lối của Đảng, mở đầu cho việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại; góp phần thực hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Từ những chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước, cũng như sự chỉ đạo thực hiện một cách tích cực và triệt để của Chính phủ trong những năm qua nên đầu tư nước ngoài đã có những đóng góp đáng kể vào công cuộc xây dựng nền kinh tế nước ta, tạo đà và khơi dậy các tiềm năng kinh tế. Để đạt được những thành tựu như vậy ta càng thấy rõ vai trò vô cùng quan trọng của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam, một đạo luật cơ bản tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt nam, một kênh quan trọng cho quá trình hội nhập quốc tế và là động lực quan trọng khơi dậy các nguồn lực trong nước, phát huy có hiệu quả các nguồn lực, làm cho bộ mặt đất nước ngày càng đổi mới và phát triển. Với vai trò quan trọng như vậy, tiểu luận này sẽ trình bày về lịch sử quá trình hình thành pháp Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam qua các thời kỳ, từ khi có văn bản pháp quy đầu tiên quy định về đầu tư nước ngoài đó là Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ đầu tư nước ngoài tại Việt nam, sau đó được nâng cấp lên thành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987, tiếp đó qua hai lần sửa đổi, bổ sung vào năm 1990 và năm 1992; và đến năm 1996 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam mới, sau đó đã lại được sửa đổi, bổ sung năm 2000 và năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư mới áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và nước ngoài. So với các đạo luật khác thì gần như trong cùng thời gian ngắn, đây là đạo luật mà có nhiều thay đổi nhất. Sự thay đổi này một mặt thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, mặt khác đó cũng là yêu cầu phù hợp với quy luật chung, nhằm đáp ứng kịp thời sự biến đổi khách quan của tình hình phát triển kinh tế trong nước cũng như quốc tế trong từng thời kỳ, để tiến tới một đạo luật ngày càng hoàn chỉnh phù hợp với xu thế hội nhập, nâng cao khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài.
Để hiểu rõ nội dung và tác dụng của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam đối với sự phát triển kinh tế qua các thời kỳ, chúng ta cần tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam từ khi có những chế định đầu tiên cho đến nay. Chúng ta tạm chia ra giai đoạn hình thành từ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987 trở về trước, còn giai đoạn phát triển là từ những lần sửa đổi, bổ sung sau Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987 đến nay.
A. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
CỦA LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
I. NGHỊ ĐỊNH SỐ 115/CP NGÀY 18/4/1977 BAN HÀNH ĐIỀU LỆ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆTNAM:
Năm 1975, đất nước Việt nam được hoàn toàn độc lập và thống nhất, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn củng cố và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lúc này, trong bối cảnh nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh lâu dài, nhân dân ta đã không ngừng phấn đấu vượt qua bao thử thách và khó khăn chồng chất. Chúng ta đã có nhiều cố gắng hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, thiết lập và củng cố chính quyền nhân dân trong cả nước. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến và mang nặng tính chất tự cấp tự túc. Trình độ trang bị kỹ thuật trong sản xuất cũng như kết cấu hạ tầng, văn hoá-xã hội lạc hậu; năng suất lao động xã hội rất thấp. Cơ cấu kinh tế vẫn mang đặc trưng một nước nông nghiệp lạc hậu, mất cân đối nặng nề trên nhiều mặt, chưa tạo được tích luỹ trong nước và lệ thuộc nhiều vào bên ngoài, chủ yếu là các nước XHCN, đặc biệt là Liên xô. Tình trạng chia cắt, khép kín ở từng đơn vị, từng ngành và từng địa phương còn phổ biến. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu quả tiêu cực. Nền kinh tế hoạt động với hiệu quả rất thấp.
Với một thực trạng kinh tế xã hội như vậy, để thực hiện được nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế xã hội, Đại hội Đảng lần thứ 4 năm 1976 đã khẳng định “việc đẩy mạnh quan hệ phân chia và hợp tác song phương trong lĩnh vực kinh tế và phát triển các quan hệ kinh tế với các nước khác có một vai trò vô cùng quan trọng” (Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần thứ 4 năm 1976). Thực hiện chủ trương đúng đắn đó của Đảng, ngày 18/4/1977, Chính phủ đã ban hành Nghị định 115/CP kèm theo Điều lệ đầu tư nước ngoài (sau đây gọi tắt là Điều lệ đầu tư năm 1977), một văn bản pháp quy riêng biệt nhằm khuyến khích và điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Văn bản pháp quy đầu tiên về đầu tư nước ngoài này, đã thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, được các nhà đầu tư nước ngoài thời kỳ đó đón nhận như một tín hiệu mở cửa của Việt nam.
Theo các quy định tại Điều 1 của Điều lệ đầu tư năm 1977, Chính phủ Việt Nam chấp thuận đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các bên cùng có lợi mà không phân biệt chế độ kinh tế chính trị của quốc gia của nhà đầu tư. Mục đích khuyến khích đầu tư nước ngoài đã được thể hiện một cách rõ ràng. Trong bối cảnh của nền kinh tế kế hoạch tập trung, nhưng Điều lệ đầu tư năm 1977 đã tạo ra một môi trường pháp lý đặc thù của một nền kinh tế tự do đối với hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Điều lệ đầu tư năm 1977 gồm 7 chương và 27 điều với cấu trúc như sau :
Chương 1 : Nguyên tắc chung
Chương 2 : Hình thức đầu tư
Chương 3 : Quyền lợi và nghĩa vụ của bên nước ngoài
Chương 4 : Thủ tục đầu tư
Chương 5 : Giải thể và thanh lý các xí nghiệp, công ty có vốn đầu tư của nước ngoài
Chương 6 : Xử lý các vụ tranh chấp
Chương 7 : Điều khoản thi hành
Dưới đây xin nêu một số nội dung chính của Điều lệ đầu tư năm 1977 như sau :
1. Lĩnh vực đầu tư và đối tác đầu tư :
1.1. Lĩnh vực đầu tư :
Điều lệ đầu tư năm 1977 quy định nhà đầu tư có thể đầu tư vào việc khai thác tài nguyên, vào các ngành nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, vận tải..... trừ những lĩnh vực, những ngành mà Chính Phủ Việt nam chỉ giành cho đầu tư trong nước. Như vậy gần như Chính phủ khuyến khích kêu gọi đầu tư nước ngoài vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế, trừ những ngành nghề mà Chính phủ quy định cấm. Điều này thể hiện ngay từ đầu chủ trương của Đảng và Nhà nước ta mong muốn cởi mở và đa dạng hóa các lĩnh vực đầu tư.
1.2. Đối tác đầu tư :
Điều lệ đầu tư năm 1977 quy định các đối tác nước ngoài được phép đầu tư tại Việt nam là: “có thể là xí nghiệp, công ty, tổ chức tư nhân, tổ chức Nhà nước, tổ chức quốc tế hoặc từng cá nhân “ (Điều 3), ở đây ta thấy rằng diện cho phép rất rộng và quy định rất cụ thể, chẳng hạn bao gồm cả tổ chức Nhà nước, tổ chức quốc tế, trong khi ngày nay Luật Đầu tư nước ngoài chỉ giới hạn trong các tổ chức kinh tế và cá nhân nước ngoài. Tuy nhiên, trong quy định về đối tác đầu tư, Điều lệ đầu tư năm 1977 mới chỉ chú trọng vào đối tác nước ngoài, mà chưa có điều khoản riêng quy định cụ thể về các loại đối tác Việt nam được phép tham gia hợp tác đầu tư.
2. Góp vốn đầu tư :
2.1. Góp vốn của Bên Việt nam :
Điều lệ đầu tư năm 1977 không có điều khoản riêng quy định việc góp vốn của Bên Việt nam cho các hình thức đầu tư nói chung, mà chỉ có quy định việc góp vốn của Bên Việt nam cho hình thức xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp, cụ thể như sau: “ Vốn do bên Việt Nam góp chủ yếu gồm đất đai, công trình xây dựng, máy móc, dụng cụ, vật liệu xây dựng và các chi phí bằng tiền Việt Nam.” ( Điều 7 Khoản 3 đoạn 2), còn phần góp vốn của hình thức Hợp tác sản xuất chia sản phẩm thì chưa quy định.
2.2. Góp vốn của Bên nước ngoài :
Điều lệ đầu tư năm 1977 đã có điều khoản riêng quy định rất rõ các hình thức góp vốn đầu tư của bên nước ngoài, theo đó bao gồm : “Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ (gồm cả những thứ dùng cho việc thí nghiệm), phương tiện vận tải, vật tư kỹ thuật, v.v... cần thiết cho mục đích nói trên; Các quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng chế phát minh, phương pháp công nghệ, bí quyết kỹ thuật (Know-how), nhãn hiệu chế tạo, v.v...; Vốn bằng ngoại tệ hoặc vật tư có giá trị ngoại tệ, nếu phía Việt nam xét thấy cần thiết; Vốn bằng ngoại tệ để chi lương cho nhân viên và công nhân làm việc ở các cơ sở hoặc tiến hành những dịch vụ theo qui định của điều lệ này “ (Điều 2).
3. Hinh thức đầu tư :
Điều lệ đầu tư năm 1977 quy định ba hình thức đầu tư đó là:
3.1. Hình thức Hợp tác sản xuất chia sản phẩm: là tiền đề của hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày nay, theo Điều lệ đầu tư năm 1977 thì bên nước ngoài thực hiện hình thức hợp tác chia sản phẩm sẽ đóng góp vốn, trang thiết bị, vật tư, kỹ thuật, công nghệ,... để xây dựng cơ sở vật chất nhằm thực hiện chương trình hợp tác kinh tế được thỏa thuận trong hợp đồng; sản phẩm làm ra sẽ được chia cho các bên theo một tỷ lệ do các bên thỏa thuận; phần sản phẩm của bên nước ngoài về nguyên tắc là để xuất khẩu, trừ trường hợp bên Việt nam yêu cầu thì có thể tiêu thụ tại Việt nam một phần hoặc toàn bộ.
3.2. Hình thức xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp, đây là tiền đề của hình thức liên doanh ngày nay, trong đó “Xí nghiệp” được định nghĩa là : Bên nước ngoài và một tổ chức kinh tế quốc doanh Việt Nam hùn vốn lập một xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp dưới hình thức công ty vô danh hoặc công ty trách nhiệm có hạn, theo đó xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp được khẳng định là một pháp nhân thành lập theo luật pháp Việt nam, hoạt động theo các điều khoản của hợp đồng hợp doanh và điều lệ của xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp. Đồng thời quy định vốn do bên nước ngoài đầu tư vào xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp được giới hạn ít nhất phải bằng 30% và nhiều nhất không quá 49% tổng vốn đầu tư, quy định này có ý nghĩa không cho bên nước ngoài chiếm đa số vốn dễ dẫn tới bên nước ngoài điều hành công ty, xí nghiệp. Sản phẩm của xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp quy định là phải được xuất khẩu với một tỷ lệ do các bên thỏa thuận.
3.3. Hình thức xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, đây là hình thức tiền để của hình thức 100% vốn nước ngoài ngày nay, theo đó xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, với 100% vốn nước ngoài này cũng có tư cách pháp nhân Việt nam, đồng thời trong này quy định rất chặt chẽ rằng sản phẩm của xí nghiệp tư doanh này phải được xuất khẩu 100%. Việc chấp nhận hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu đã chứng tỏ tính tự do và cởi mở của Điều lệ đầu tư năm 1977.
4. Thời hạn đầu tư :
Điều lệ đầu tư năm 1977 quy định thời hạn đầu tư trong thời gian từ 10 đến 15 năm trừ những trường hợp đặc biệt (Ví dụ như trong lĩnh vực dầu khí) thì thời gian có thể được cho phép dài hơn ( Điều 10 khoản 1).
5. Thuế áp dụng cho đầu tư nước ngoài:
5.1. Thuế lợi tức áp dụng 3 mức là: 30%, 40%, 50% (Điều 15), cụ thể như sau : 30% lợi tức tính thuế đối với các ngành sản xuất chuyên dành cho xuất khẩu, thu theo hình thức khoán định mức trên doanh số hoặc đơn vị sản phẩm; 40% lợi tức tính thuế đối với những ngành kinh tế đòi hỏi trình độ kỹ thuật hiện đại và số vốn đầu tư lớn; 50% lợi tức tính thuế đối với các ngành kinh tế khác.
5.2. Thuế xuất nhập khẩu, Điều lệ đầu tư năm 1977 quy định : “ Có thể được miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu một lần hoặc nhiều lần, đối với các thiết bị, máy móc, dụng cụ, phụ tùng... nhập khẩu để trang bị cho xí nghiệp hỗn hợp và đối với các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, v.v cần thiết cho hoạt động sản xuất của xí nghiệp “(Điều 11 khoản 2), đông thời Điều lệ đầu tư năm 1977 đã cho phép “miễn thuế xuất khẩu đối với sản phẩm của xí nghiệp bán ra nước ngoài “(Điều 12 khoản4), đây là quy định rất phù hợp với chủ chương khuyến khích xuất khẩu từ trước đến nay, kể cả Luật Đầu tư nước ngoài sau này.
6. Quản lý ngoại hối và chế độ kế toán thống kê :
Về chế độ quản lý ngoại hối Điều lệ đầu tư năm 1977 quy định : “ Tuân theo các thể lệ quản lý ngoại thương và quản lý ngoại hối của Việt Nam ”(Điều 14 khoản 3) và chế độ kế toán thống kê, Điều lệ đầu tư năm 1977 quy định : “ Theo chế độ kế toán Việt Nam hoặc một chế độ kế toán được Bộ Tài chính nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam chấp thuận“ (Điều 14 khoản 2).
7. Thủ tục đầu tư:
Điều lệ đầu tư năm 1977 chưa quy định được quy trình thẩm định và nội dung đầu mục hồ sơ một cách cụ thể, tuy nhiên cũng đã quy định được đầu mối nhận hồ sơ và cấp Giấy phép đầu tư là Bộ ngoại thương (nay là Bộ thương mại) (Điều 17 và 19), đã quy định thời hạn xem xét thẩm định hồ sơ là 3 tháng và sau khi nhận được Giấy phép đầu tư (Điều 18), nhà đầu tư phải đăng ký đầu tư tại Bộ ngoại thương để quản lý chung về hoạt động kinh doanh và đăng ký với Bộ tài chính để quản lý các vấn đề về thuế, tài chính (Điều 20).
8. Giải thể, xử lý tranh chấp:
Điều lệ đầu tư năm 1977 đã đề cập đến các vấn đề giải thể, xử lý tranh chấp, tuy nhiên mới chỉ đưa ra những nguyên lý chung tương đối khái quát, chưa quy định cụ thể được cách xử lý như thế nào, ví dụ Điều 21 quy định: khi giải thể thì phải thanh lý nhưng trên thực tế lại không có văn bản pháp quy nào quy định cụ thể về việc giải quyết thanh lý; hoặc Điều 24 quy định những tranh chấp lao động, nhưng trên thực tế lại không có văn bản pháp quy định vấn đề giải quyết tranh chấp lao động.
Qua phân tích những nội dung chính của Điều lệ đầu tư năm 1977 nêu trên, ta thấy rằng Điều lệ đầu tư năm 1977 quy định quá khái quát, chưa cụ thể, nên nếu áp dụng sẽ có nhiều vướng mắc, dễ dẫn tới áp dụng một cách tùy tiện. Nhiều chỗ văn bản quy định chưa thật logic, và chính xác, hoặc quá chú trọng vào việc quy định đối với hình thức xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp và hình thức xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, nên nhiều chỗ có thể hiểu lầm là những quy định đó không áp dụng cho hình thức hợp tác sản xuất chia sản phẩm. Ngoài ra bản thân nội dung điều lệ cũng bộc lộ những hạn chế, như: Thời hạn cho phép đầu tư quá ngắn, từ 10 - 15 năm kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư (Điều 9); Bản điều lệ chưa khẳng định được Chính phủ Việt Nam 'có' hay 'không' quốc hữu hoá các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà quy định rất chung chung (Điều 10 khoản 2). Việc quy định rất chung như vậy, dễ gây nên tâm lý không an tâm cho các nhà đầu tư vào Việt Nam; Mức thuế lợi tức quy định quá cao: 30%, 40%, 50% (Điều 15); Đối với hình thức công ty hỗn hợp, phần góp vốn của nước ngoài được không chế không quá 49% (Điều 7)…
Ngoài ra, Điều lệ về đầu tư năm 1977 còn thiếu các quy định cụ thể cho việc thi hành Nghị định như các quy định về quản lý ngoại hối, đất đai, lao động, tài nguyên... chưa tạo được một cơ sở pháp lý đầy đủ, có hiệu lực pháp lý cao và làm hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài, chưa tạo nên một môi trường pháp lý đồng bộ cho hoạt động đầu tư. Mặc dù tồn tại suốt 10 năm từ khi ban hành năm 1977 đến khi có Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987, nhưng Điều lệ đầu tư năm 1977 đã chưa phát huy tác dụng về mặt thực tiễn, chúng ta đã không cấp được giấy phép đầu tư nào mà theo trình tự, thủ tục quy định trong Điều lệ đầu tư năm 1977.
Trong bối cảnh của tình hình bị Mỹ bao vây, cấm vận kinh tế, tuy chúng ta chưa cấp Giấy phép đầu tư nào dựa trên căn cứ trực tiếp là Điều lệ đầu tư năm 1977, nhưng trên thực tế ta đã gián tiếp dựa trên “tinh thần” của Điều lệ đầu tư năm 1977 để ký kết một số hiệp định hợp tác đầu tư với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Cụ thể là ngày 3/7/1980, Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Hiệp định về hợp tác tiến hành thăm dò địa chất và khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam và tiếp đó ngày 19/6/1981 đã ký Hiệp định về việc thành lập xí nghiệp liên doanh Việt – Xô thăm dò địa chất và khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam với Chính phủ Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết. Đây là hai hiệp định quan trọng trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ở giai đoạn này.
Ngoài hai hiệp định nói trên, ngày 29/10/1987, Việt Nam đã ký với Liên Xô Hiệp định về việc thành lập và hoạt động của các xí nghiệp liên doanh và Hiệp định về các quan hệ khoa học – kỹ thuật và sản xuất trực tiếp của các liên hiệp, xí nghiệp và tổ chức Liên Xô và Việt Nam. Các hiệp định do Nhà nước ta ký với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác thời gian đó đã tạo ra cơ sở pháp lý bước đầu cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Việc Điều lệ đầu tư năm 1977 không phát huy hiệu quả nêu trên bởi ba lý do, thứ nhất: những khoản viện trợ chính thức liên chính phủ chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong quan hệ của các nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đó. Hơn nữa, đầu tư từ các nước xã hội chủ nghĩa trước đây được thực hiện theo các điều ước quốc tế ký kết giữa các nước này với Việt Nam, mà trong đó chứa đựng nhiều ữu đãi vượt khung pháp luật hiện hành và điều chỉnh theo một cơ chế riêng của điều ước; thứ hai: trong thời gian sau 1975, Việt Nam phải luôn chú trọng vào việc đối phó với những âm mưu phá hoại và xâm chiếm của các thế lực thù địch tại biên giới phía Tây nam và biên giới phía Bắc, dẫn tới tâm lý làm cho nhà đầu tư cảm thấy tình hình chính trị không ổn định nên không yên tâm đầu tư; thứ ba: do bản thân Điều lệ đầu tư năm 1977 có những hạn chế, đồng thời những chính sách đồng bộ kèm theo Điều lệ đầu tư năm 1977 để nhằm thu hút đầu tư chưa được chú trọng ban hành.
Tuy nhiên, vào thời điểm năm 1977, mới có 2 năm sau giải phóng miền nam, thống nhất nước nhà, Đảng và nhà nước ta bắt tay vào công cuộc củng cố và phát triển kinh tế, với một đội ngũ cán bộ chưa có kinh nghiệm làm kinh tế, cũng như quản lý kinh tế, với một cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp, với một đường lối kinh tế chỉ công nhận 2 thành phần kinh tế, đó là thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế Hợp tác xã. Hơn nữa chúng ta lại là một nước xã hội chủ nghĩa, thế mà chúng ta đã mạnh dạn đưa ra một khung pháp lý như vậy, quả là một sự cố gắng rất cao, một “tầm nhìn xa trông rộng” hơn nhiều so với một số nước xã hội chủ nghĩa khác. Điều này cho thấy, tuy chưa được công nhận trong các văn kiện của Đảng, cũng như chưa được thể chế hoá trong Hiến pháp, nhưng trên thực tế với Điều lệ đầu tư năm 1977 đã phần nào minh chứng cho tư duy lúc đó chúng ta đã nghĩ tới việc kết hợp với tư bản nước ngoài trong một khuôn khổ pháp lý để khôi phục phát triển kinh tế. Điều lệ đầu tư năm 1977 đã lường trước và đề cập đến mọi mặt của quá trình kinh doanh, tạo ra được khung pháp lý ban đầu cho hoạt động đầu tư nước ngoài, đây là những tiền đề cho những ý tưởng và là cơ sở cho những bước cải cách sau này, ngay cả Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 cũng đã lấy Điều lệ đầu tư năm 1977 làm nội dung chính để nâng cấp, hoàn thiện thêm. Cho dù, chúng ta về sau này có một Bộ Luật Đầu tư nước ngoài hoàn chỉnh và có ý nghĩa thu hút đầu tư nước ngoài đến mấy, thì chúng ta cũng không thể không nhớ tới và trân trọng những ý tưởng và căn cứ pháp lý ban đầu về đầu tư nước ngoài đó là Điều lệ đầu tư năm 1977.
II. LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM NĂM 1987
Trong những năm 1980, nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng, sự vận hành của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp đã cản trở sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, mức lạm phát lên tới trên 700% năm 1986. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong các năm 1981 - 1985 là 6,4% và 1986 - 1990 là 3,9% (Tạp chí cộng sản số 17 năm 1997). Nhiều xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp sản xuất cầm chừng, thậm chí đóng cửa hoặc giải thể, hàng chục vạn công nhân dời bỏ dây chuyền sản xuất, đổ vỡ tín dụng liên tiếp xảy ra ở nhiều nơi gây ảnh hưởng rất xấu tới tình hình kinh tế xã hội. Trong khi đó, hàng loạt các ngành có ưu thế như : công nghiệp chế biến, công nghiệp tiêu dùng, gia công lắp ráp... lại không được Nhà nước quan tâm đúng mức, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và tất cả đều ở trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng.
Đứng trước bối cảnh đất nước như vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) đã đề ra những chính sách hết sức đúng đắn, đánh dấu bước chuyển biến quan trọng, đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng, mở ra công cuộc 'đổi mới' toàn diện trên mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Cụ thể hoá đường lối chỉ đạo của Đảng là mở rộng giao lưu quốc tế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát triển kinh tế đất nước. Do vậy, thực hiện Nghị quyết số 19 của Bộ Chính trị ngày 17/7/1984 và Nghị quyết Hội Nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khoá V) ngày 20/12/1984 về việc bổ sung và hoàn thiện Điều lệ đầu tư đã ban hành năm 1977, tiến tới xây dựng một bộ Luật Đầu tư hoàn chỉnh, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá 8 ngày 31/12/1987 đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Sau đây gọi là Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987). Có thể nói sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 xuất phát từ những yêu cầu khách quan của sự vận động xã hội, nó đã tạo ra được một môi trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 được soạn thảo dựa trên nội dung cơ bản của Điều lệ đầu tư năm 1977, xuất phát từ thực tiễn Việt nam và tham khảo kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới. Với một nội dung tương đối hấp dẫn, cấu trúc đơn giản, đầy đủ và nhìn chung phù hợp với tập quán luật pháp Quốc tế, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã đáp ứng được mong mỏi của các nhà đầu tư nước ngoài.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 gồm 6 chương với 42 điều, với cấu trúc như sau :
- Chương 1: Những quy định chung.
- Chương 2: Hình thức đầu tư.
- Chương 3: Biện pháp bảo đảm đầu tư.
- Chương 4: Quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân đầu tư nước ngoài
- Chương 5: Cơ quan nhà nước quản lý đầu tư của nước ngoài
- Chương 6: Điều khoản cuối cùng
Dưới đây xin trình bày nội dung chính của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 như sau :
1. Lĩnh vực đầu tư:
Dựa trên những lĩnh vực kêu gọi đầu tư đã được quy định trong Điều lệ đầu tư năm 1977, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã bổ sung và chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn cảnh mới, cụ thể như sau: “Thực hiện các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu; Sử dụng kỹ thuật cao, công nhân lành nghề, đầu tư theo chiều sâu để khai thác, tận dụng các khả năng và nâng cao công xuất của các cơ sở kinh tế hiện có; Sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Việt nam; Xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ; Dịch vụ thu tiền nước ngoài như du lịch, sửa chữa tầu, dịch vụ sân bay, cảng khẩu và các dịch vụ khác” (Điều 3 đoạn 2)
2. Đối tác tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài:
2.1. Bên Việt nam :
Điều lệ đầu tư 1977 chưa quy định được những đối tượng Bên Việt nam đuợc tham gia hợp tác đầu tư, nên trên thực tế nếu thực hiện sẽ không tránh khỏi những vướng mắc. Để khắc phục tình trạng không rõ ràng và thể hiện chính sách của Nhà nước ta, Luật Đầu tư nước ngoài 1987 đã quy định rất cụ thể những đối tượng Bên Việt nam được tham gia hợp tác đầu tư, đó là “ Bên Việt nam là một bên gồm một hoặc nhiều tổ chức kinh tế Việt nam có tư cách pháp nhân; các tư nhân Việt nam có thể chung vốn với tổ chức Việt nam thành Bên Việt nam để hợp tác kinh doanh với Bên nước ngoài” (Điều 2 khoản 2). Như vậy chỉ có tổ chức kinh tế Việt nam có tư cách pháp nhân mới được phép tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài, các tổ chức không phải là tổ chức kinh tế và không có tư cách pháp nhân thì không được phép tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài.
Còn đối với tư nhân, nếu muốn tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài thì không được đứng độc lập, mà phải chung vốn với một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân để thành Bên Việt nam, lúc đó mới có thể tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài. Vào những năm 1987 Luật công ty, và Luật Doanh nghiệp tư nhân chưa ra đời, nên chưa có cơ chế pháp lý để cho thành phần kinh tế tư nhân đứng độc lập trong việc tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài.
2.2. Bên nước ngoài :
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định : “Bên nước ngoài là một bên gồm một hoặc nhiều tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hoặc cá nhân nước ngoài” (Điều 2 khoản 1), trong khi Điều lệ về đầu tư nước ngoài năm 1977 lại quy định rất cụ thể, nhưng chưa đầy đủ và chưa chính xác, Điều lệ về đầu tư nước ngoài năm 1977 quy định: “ Bên nước ngoài có thể là xí nghiệp, công ty, tổ chức tư nhân, tổ chức Nhà nước, tổ chức quốc tế hoặc từng cá nhân “ (Điều 3). Quy định như Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 có tính bao quát và đầy đủ hơn và khoa học hơn Điều lệ về đầu tư nước ngoài năm 1977, nó bao trùm tất cả các đối tượng là tổ chức kinh tế và cá nhân nước ngoài, thể hiện được chủ trương “mở cửa” của ta nhằm khuyến khích và kêu gọi đầu tư nước ngoài thuộc mọi đối tượng bao gồm các tổ chức kinh tế và các cá nhân nước ngoài có tiềm năng kinh tế đầu tư vào Việt nam.
3. Các hình thức đầu tư.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã hoàn thiện 3 hình thức đầu tư mà đã được quy định một cách sơ khai trong Điều lệ đầu tư năm 1977 với một nội dung rõ ràng hơn, khoa học hơn, cụ thể như sau :
3.1. Hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh :
Hợp đồng hợp tác kinh doanh được áp dụng ngày càng rộng rãi ở nhiều nước và được nhà đầu tư nước ngoài hoan nghênh vì rất đa dạng, linh hoạt, hình thức này được bắt nguồn từ hình thức hợp tác sản xuất chia sản phẩm quy định trong Điều lệ Đầu tư 1977. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã chuẩn hóa và hoàn thiện lại thành hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh và quy định tại Điều 5 như sau : “Bên nước ngoài và Bên Việt nam được hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh như hợp tác sản xuất chia sản phẩm và các hình thức hợp tác kinh doanh khác“. Tinh thần của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định rất rõ đặc trưng cơ bản của Hợp đồng hợp tác kinh doanh là các bên cùng góp vốn để kinh doanh, sau đó phân chia kết quả kinh doanh và không thành lập một pháp nhân mới như hình thức liên doanh. Mỗi Bên hợp doanh vẫn giữ pháp nhân riêng của mình và tự quản lý thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo hai hệ thống luật pháp khác nhau. Bên hợp doanh Việt Nam thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo pháp luật trong nước, Bên hợp doanh nước ngoài thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo pháp Luật Đầu tư nước ngoài.
3.2. Hình thức Xí nghiệp liên doanh:
Điều 2 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 định nghĩa về hình thức Xí nghiệp liên doanh như sau : “ Xí nghiệp liên doanh là xí nghiệp do Bên nước ngoài và Bên Việt Nam hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc Hiệp định ký giữa Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Chính phủ nước ngoài “. Theo định nghĩa này Nhà nước cho phép xí nghiệp liên doanh gồm chỉ có hai bên là Bên nước ngoài và Bên Việt Nam, nếu có nhiều pháp nhân hoặc cá nhân muốn hợp tác đầu tư thì cũng cũng phải thoả thuận lại thành một Bên nước ngoài và một Bên Việt Nam để liên doanh với nhau. Ngoài ra, bên cạnh đó còn có một liên doanh được thành lập trên có sở Hiệp định giữa Chính phủ Liên xô và Chính phủ Việt nam đó là liên doanh dầu khí Việt-Xô nên định nghĩa trên đã mở rộng diện áp dụng cho cả đối tượng liên doanh mà được thành lập trên cơ sở điều ước giữa hai Chính phủ, trên thực tế thì từ đó đến nay, ngoài liên doanh dầu khí Việt-Xô thì cũng không có bất kỳ liên doanh nào tương tự như vậy.
3.3. Hình thức Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài thực chất đã được quy định trong Điều lệ đầu tư năm 1977, nhưng thời bấy giờ quy định rất chặt trẽ, bắt buộc phải xuất khẩu 100%, nên đã lấy tên hình thức này là “xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu”. Nếu quy định như vậy sẽ làm kém hấp dẫn của hình thức này, nên Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã đổi tên thành hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và được quy định tại Điều 14 như sau: “Các tổ chức cá nhân nước ngoài được thành lập tại Việt nam xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, tự mình quản lý xí nghiệp, chịu sự kiểm soát của cơ quan Nhà nước quản lý về đầu tư nước ngoài, đuợc hưởng các quyền lợi và phải thực hiện các nghĩa vụ ghi trong giấy phép đầu tư. Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt nam”. Như vậy theo tinh thần Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 thì xí nghiệp 100% vốn nước ngoài là xí nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài do tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, không bắt buộc phải xuất khẩu 100% sản phẩm làm ra. Đây là bước tiến rất quan trọng so với Điều lệ Đầu tư năm 1977. Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và là một pháp nhân Việt Nam.
4. Những biện pháp bảo đảm đầu tư
Một trong những quy định quan trọng mà nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm, đó là vấn đề bảo đảm đầu tư, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định tương đối đầy đủ những nguyên tắc và biện pháp bảo đảm đầu tư nhằm làm cho Bên nước ngoài yên tâm đầu tư vào Việt nam, thể hiện ngay Điều 1 đoạn 2 quy định : “Nhà nước Việt nam bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, tạo những điều kiện thuận lợi và định các thủ tục dễ dàng cho các tổ chức, cá nhân có đầu tư tại Việt nam”, đồng thời Điều 21 cũng khẳng định : “ Trong quá trình đầu tư vào Việt nam, vốn và tài sản của các tổ chức, cá nhân nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hóa”. Như vậy những nguyên tắc cơ bản nhất đã được Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 ghi nhận và khẳng định, điều này vô cùng quan trọng đối với nhà đầu tư, nó đã tạo ra được tâm lý vững vàng cho nhà đầu tư khi đầu tư vào Việt nam. Ngoài ra, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định bảo đảm đối đãi công bằng và thoả đáng với nhà đầu tư (Điều 20); Cho phép nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước vốn, lợi nhuận và mọi khoản tiền khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của họ (Điều 22); Cho phép nhân viên người nước ngoài làm việc trong xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp có vốn 100% của nước ngoài hoặc để thực hiện các hợp đồng hợp tác kinh doanh được chuyển về nước thu nhập hợp pháp của mình, sau khi đã nộp đủ thuế thu nhập (Điều 23).
5. Quy định về thuế, tài chính:
5.1. Về thuế lợi tức:
5.1.1. Mức thuế lợi tức :
Theo Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 thì thuế lợi tức áp dụng đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài từ 10% đến 25% lợi nhuận thu được. Trên cơ sở đó Điều 73, 74, 75 Nghị định 139[1] quy định thành 3 loại, đó là : trường hợp đặc biệt cần khuyến khích đầu tư áp dụng từ 10% đến 14% lợi nhuận thu được và miễn thuế lợi tức trong thời gian tối đa là 4 năm và giảm 50% thuế lợi tức trong thời gian tối đa là 4 năm tiếp theo kể từ khi xí nghiệp bắt đầu kinh doanh có lãi (Điều 75 Nghị định 139); trường hợp ưu tiên từ 15% đến 20% lợi nhuận thu được và miễn thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 2 năm và giảm 50% thuế lợi tức trong 2 năm tiếp theo (Điều 74 Nghị định 139); trường hợp phổ thông từ 21% đến 25% lợi nhuận thu được; đối với các ngành khai thác dầu khí và một số tài nguyên quý hiếm khác, thì xuất thuế lợi tức cho từng trường hợp cụ thể cao hơn 25% lợi nhuận thu được, phù hợp với thông lệ quốc tế (Điều 73 khoản 5 Nghị định 139).
5.1.2. Hoàn thuế lợi tức trường hợp tái đầu tư:
Nếu Tổ chức kinh tế hoặc cá nhân nước ngoài dùng lợi nhuận thu được để tái đầu tư, sẽ được Cơ quan thuế hoàn lại số tiền thuế lợi tức đã nộp liên quan đến phần lợi nhuận tái đầu tư (Điều 32). Tiếp theo đó, Nghị định 139 đã cụ thể hoá theo hướng nếu dùng lợi nhuận được chia để tái đầu tư từ 3 năm trở lên thì mới được hoàn thuế lợi tức đối với phần lợi nhận tái đầu tư. Quy định 3 năm, bởi lẽ ta cần nhà đầu tư có ý định làm ăn lâu dài tại Việt nam, nếu không hạn chế chỉ từ 3 năm trở lên thì nhà đầu tư sẽ lợi dụng sự khuyến khích này của pháp luật mà làm thủ tục tái đầu tư để được hoàn thuế lợi tức, và ngay sau đó rút vốn tái đầu tư chuyển về nước (Điều 77 Nghị định 139).
5.1.3. Chuyển lỗ :
Theo quy luật chung thì trong thời gian đầu thường chưa có lãi (lỗ) do phải chi phí nhiều, hoạt động kinh doanh đang hình thành và ổn định dần, hơn nữa trong quá trình kinh doanh có lúc thuận lợi, cũng có lúc gặp khó khăn do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Để hỗ trợ doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã cho phép trong quá trình hoạt động, xí nghiệp liên doanh được chuyển lỗ của bất kỳ năm thuế nào sang năm tiếp theo và được bù số lỗ đó bằng lợi nhuận của những năm tiếp theo, nhưng không được quá 5 năm (Điều 27).
5.2. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài:
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài từ 5% đến 10% số tiền chuyển ra nước ngoài. Nghị định 139 Điều 76 đã quy định cụ thể 2 mức như sau:
- Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 5% đối với : tổ chức kinh tế hoặc cá nhân nước ngoài có tỷ lệ góp vốn trên 50% trong vốn pháp định hoặc có vốn góp trên 10 triệu đô la Mỹ;
- Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 10% đối với các trường hợp còn lại ;
5.3. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 không quy định chi tiết vấn đề thuế xuất nhập khẩu trong luật, nhưng đã quy định nguyên tắc là áp dụng theo quy định của Luật thuế xuất nhập khẩu và giao cho cho Cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài quyết định việc miễn giảm thuế xuất nhập khẩu (Điều 35). Trên cơ sở đó Nghị định 139 đã quy định cụ thể như sau:
- Miễn thuế xuất khẩu đối với các sản phẩm xuất khẩu của các dự án đầu tư nước ngoài (Điều 81 Nghị định 139)
- Miễn thuế nhập khẩu vào Việt nam đối với các thiết bị, máy móc, phụ tùng, các phương tiện sản xuất kinh doanh (gồm cả phương tiện vận tải) và các vật tư góp vào vốn của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc vào vốn để hợp tác kinh doanh và những thiết bị, máy móc, phụ tùng và các vật tư được nhập khẩu bằng vốn là một phần của tổng vốn đầu tư của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Điều 81 Nghị định 139);
- Miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu, bộ phận rời, phụ tùng và các vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu (Điều 81 Nghị định 139).
5.4. Quy định về vốn :
5.4.1. Vốn pháp định:
Lần đầu tiên Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đưa ra khái niệm “Vốn pháp định”, cụ thể như sau : “Vốn pháp định là vốn ban đầu của xí nghiệp liên doanh được ghi trong điều lệ xí nghiệp (Điều 2 khoản 9), quy định này chưa đầy đủ, ở chỗ nó chỉ quy định vốn pháp định đối với xí nghiệp liên doanh, mà không đề cập đến vốn pháp định của xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nhưng việc định ra vốn pháp định là một bước tiến lớn trong lịch sử pháp Luật Đầu tư nước ngoài, nó gắn với quy định về hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, ở chỗ các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong Luật Đầu tư nước ngoài là các công ty trách nhiệm hữu hạn, đã là công ty trách nhiệm hữu hạn thì nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm với các bên trong doanh nghiệp và vơi bên thứ ba trong phạm vi phần vốn mà họ cam kết đóng góp trong vốn pháp định mà thôi. Điều này rất có ý nghĩa khi xử lý tranh chấp giải thể hoặc phá sản. Việc quy định vốn pháp định đã giải toả bao nhiêu vấn đề liên quan đến các tiêu chí để định ra khung pháp lý cho đầu tư nước ngoài, ví dụ : Quy định đối với phần góp vốn của Bên nước ngoài vào vốn pháp định không khống chế mức cao nhất, nhưng không được dưới 30% so với vốn pháp định (Điều 8); Quy định trong quá trình hoạt động, xí nghiệp liên doanh không được giảm vốn pháp định và việc tăng vốn pháp định do các bên liên doanh thoả thuận và đăng ký tại Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư (Điều 31 Nghị định 139); Phương thức góp vốn pháp định phải ghi trong điều lệ xí nghiệp; Chuyển nhượng vốn pháp định phải ưu tiên chuyển cho các bên trong xí nghiệp liên doanh, trong trường hợp bên kia trong liên doanh không mua thì mới bán cho bên thứ ba, điều kiện bán cho bên thứ ba không được thuận lợi hơn điều kiện đã chào bán cho bên kia trong liên doanh (Điều 32 Nghị định 139)…
5.4.2. Quy định về các hình thức góp vốn pháp định(Điều 7):
Như trên đã phân tích, Điều lệ đầu tư năm 1977 chỉ quy định các hình thức góp vốn của bên nước ngoài, còn đối với việc góp vốn của Bên Việt nam thì chỉ quy định đối với hình thức xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp, riêng phần góp vốn của hình thức Hợp tác sản xuất chia sản phẩm thì chưa quy định. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã có bước tiến bộ hơn là quy định rất rõ các hình thức góp vốn của Bên Việt nam và Bên nước ngoài áp dụng chung cho các hình thức đầu tư (Điều 7),
Về các hình thức góp vốn của Bên Việt nam, đặc biệt lần này Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã khẳng định Bên Việt nam được quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất, một quy định rất mới, có thể nói chỉ có Việt nam mới có hình thức vốn như vậy, đây lại là một sáng tạo rất phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước ta.
5.5. Trích lập quỹ
Nhằm bảo đảm về tình hình tài chính của doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài 1987 đã bắt buộc các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sau khi nộp thuế lợi tức phải trích 5% lợi nhuận còn lại để lập quỹ dự phòng và được giới hạn ở mức 25% vốn pháp định của xí nghiệp, đong thời tỷ lệ lợi nhuận dành ra để lập các quỹ khác do hai bên thoả thuận và ghi trong Điều lệ của xí nghiệp (Điều 30).
5.6. Kế toán thống kế
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã kế thừa quy định của Điều lệ đầu tư 1977 về áp dụng chế độ kế toán thống kê, nhưng đã có sự hoàn thiện hơn ở chỗ quy định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng chế độ kế toán theo những nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế phổ biến nhưng phải được Bộ tài chính chấp thuận (Điều 18), trong khi Điều lệ đầu tư năm 1977 chi quy định bắt buộc đối với các bên nước ngoài, mà không quy định đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Điều 14 khoản 2 Điều lệ Đầu tư năm 1977).
5.7. Bảo hiểm
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định tài sản của xí nghiệp liên doanh được bảo hiểm tại Công ty bảo hiểm Việt Nam hoặc tại các công ty bảo hiểm khác do hai bên thoả thuận. Đây là một quy định mới rất cần thiết, bảo đảm tài sản cho doanh nghiệp mà Điều lệ đầu tư 1977 chưa quy định. Tuy nhiên, quy định này còn thiếu sót ở chỗ nó mới chỉ quy định cho xí nghiệp liên doanh, còn xí nghiệp 100% vốn nước ngoài thì chưa quy định
6. Quy định về ngân hàng và quản lý ngoại hối:
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mở tài khoản bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam hoặc tại các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đặt ở Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận (Điều 17). So với Điều lệ đầu tư năm 1977 thì Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã mở rộng hơn là cho phép mở tài khoản ở ngân hàng nước ngoài tại Việt nam, trong khi trước đây chỉ cho phép mở tài khoản tại Ngân hàng ngoại thương Việt nam.
Ngoài ra, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 cũng cho phép nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư và các thu nhập hợp pháp ra nước ngoài bằng ngoại tệ. Trên cơ sở những nguyên tắc đó, Nghị định 139 đã quy định cụ thể việc chuyển vốn thông thường được chia ra 3 năm bàng nhau, trong trường hợp đặc biệt thì Ngân hàng Nhà nước Việt nam có thể cho phép thời hạn ngắn hơn (Điều 88 khoản 3 Nghị định 139). Quy định này nhằm tránh tình trạng các nhà đầu tư đồng loạt rút tiền ra cùng một lúc thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới sự hoạt động của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế Việt nam.
7. Quy định về lao động
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã có những quy định nhằm bảo vệ người lao động Việt nam, qua đó khẳng định công dân Việt Nam được ưu tiên tuyển dụng vào xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Điều 16 đoạn 1), đồng thời quy định đối với những công việc đòi hỏi kỹ thuật cao mà phía Việt Nam chưa đáp ứng được thì xí nghiệp được tuyển dụng người nước ngoài. Và quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động Việt Nam làm việc trong xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được bảo đảm bằng hợp đồng lao động. Ngoài ra, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 còn quy định rõ lương và các khoản phụ cấp khác của người lao động Việt Nam được trả bằng tiền Việt Nam có gốc tiền nước ngoài, nhằm bảo vệ thu nhập chính đáng của người lao động trong mọi trường hợp, kể cả khi có trượt giá hay lạm phát.
8. Quy định về tổ chức quản và điều hành doanh nghiệp
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định cơ quan lãnh đạo cao nhất của xí nghiệp liên doanh là Hội đồng quản trị (Điều 12), và quy định mỗi bên chỉ định người của mình tham gia Hội đồng quản trị theo tỷ lệ tương ứng với phần góp vốn nhưng ít nhất có hai thành viên trong Hội đồng quản trị, như vậy trong Hội đồng quản trị ít nhất có 4 thành viên Hội đồng quản trị, vì chỉ có liên doanh hai bên, lúc này chưa cho phép liên danh nhiều bên. Chủ tịch Hội đồng do hai bên thoả thuận cử ra. Tổng giám đốc và các Phó Tổng giám đốc do Hội đồng quản trị cử ra để điều hành các hoạt động hàng ngày của xí nghiệp và chịu trách nhiệm trước Hội đồng về hoạt động của xí nghiệp. Tổng giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc thứ nhất là công dân Việt Nam. Quy định này nhằm bảo đảm sự tham gia quản lý điều hành của Bên Việt nam, đồng thời thông qua đó học hỏi được kinh nghiệm quản lý. Ngoài ra, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định các vấn đề quan trọng nhất trong tổ chức và hoạt động của xí nghiệp liên doanh như phương hướng hoạt động, kế hoạch kinh doanh, cán bộ chủ chốt của xí nghiệp do Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc nhất trí còn các vấn đề khác thì phải được 2/3 thành viên Hội đồng quản trị chấp thuận (Điều 13).
9. Thời hạn đầu tư:
Điều lệ đầu tư năm 1977 chỉ cho phép thời hạn đầu tư 'từ 10 đến 15 năm, trong trường hợp đặc biệt có thể dài hơn' (Điều 10 khoản 1 Điều lệ đầu tư năm 1977), nhưng dài hơn là bao nhiêu thì không có văn bản nào hướng dẫn. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định rộng hơn là ' Thời hạn hoạt động của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không quá 20 năm. Trong trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể dài hơn' (Điều 15), sau đó Nghị định 139 đã cụ thể hoá thời hạn tối đa là 50 năm (Điều 43). Với thời gian dài như vậy đã làm nhà đầu tư yên tâm đầu tư những dự án lớn và có khả năng thu hồi vốn chậm, đấy cũng là lĩnh vực ta cần khuyến khích kêu gọi đầu tư. Tuy nhiên Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 vẫn chưa quy định thời hạn cho hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
10. Thủ tục cấp phép đầu tư:
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định rõ về quy trình thẩm định cấp Giấy phép đầu tư và giới hạn thời gian tối đa là 3 tháng thì cơ quan cấp phép đầu tư phải trả lời nhà đầu tư việc việc cấp Giấy phép đầu tư (Điều 38 - Luật 87). Ngoài ra còn quy định rất kỹ đến nội dung hồ sơ của từng loại hình thức đầu tư, về đơn, điều lệ, hợp đồng, luận chứng kinh tế kỹ thuật... và những tài liệu liên quan khác (Điều 37 )
11. Giải thể :
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định ngyên tắc chung nhất về trường hợp giải thể doanh nghiệp (Điều 19), nhưng tiếp theo đó Nghị định 139 đã quy định rất chi tiết vấn đề giải thể trước thời hạn và giải thể đúng thời hạn, trong đó bắt buộc thành lập Ban thanh lý, quy định thành phần gồm 3 thành viên (Điều 48 Nghi định 139); chức năng, nhiệm vụ của Ban thanh lý, quy định thời hạn hoạt động của Ban thanh lý thông thường không quá 6 tháng, trong trường hợp cần thiết thời hạn này có thể dài hơn nhưng không quá 1 năm (Điều 49 Nghi định 139); đồng thời quy định các việc cần xử lý sau khi thanh lý như xử lý tài sản thanh lý (Điều 50 Nghi định 139) thậm chí cả vấn đề xử lý tranh chấp phát sinh khi thanh lý (Điều 51 Nghi định 139)
12. Giải quyết tranh chấp:
Điều 25 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, cũng như Điều 53 Nghị định 139 quy định rất rõ ràng nguyên tắc xử lý các tranh chấp, cụ thể như sau : Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc hợp đồng liên doanh, cũng như các tranh chấp giữa xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài với các tổ chức kinh tế của Việt Nam hoặc giữa các xí nghiệp đó với nhau trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng và hoà giải. Trong trường hợp các bên tranh chấp vẫn không thoả thuận được với nhau thì, các bên tranh chấp có thể lựa chọn một trong các hình thức trọng tài: Hội đồng Trọng tài ngoại thương bên cạnh Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam hoặc Trọng tài một nước thứ ba hoặc Trọng tài quốc tế; hoặc một Hội đồng Trọng tài do hai bên thoả thuận thành lập.
13. Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
Nếu để nhà đầu tư phải giao dịch với quá nhiều đầu mối và nếu không có một cơ quan có thẩm quyền quyết định, thì dễ làm cho nhà đầu tư nước ngoài nản lòng. Nhằm đáp ứng yêu cầu hợp lý của nhà đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định chức năng, thẩm quyền của cơ quan đầu mối giải quyết những vấn đề có liên quan đến hoạt động đầu tư của người nước ngoài tại Việt nam (Điều 36) và trên tinh thần đó, Nghị định 139 đã chỉ rõ cơ quan đó là Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ kế hoạch và đầu tư) (Điều 6 Nghị định 139).
Điều lệ đầu tư năm 1977 có hiệu lực trong 10 năm nhưng không phát huy có hiệu quả, Luật Đầu tư nước ngoài từ khi ban hành năm 1987 đến khi sửa đổi lần thứ nhất năm 1990, tuy mới có sau hơn hai năm thực hiện nhưng đã chứng minh được tính ưu việt và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, thể hiện tính đến 31/5/1990 ta đa cấp được 213 giấy phép đầu tư với tổng vốn đầu tư là 1,793 tỷ USD. Để có được thành tích như vậy, ta không thể không khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, cũng như hệ thống văn bản quy định chi tiết thi hành luật đã tạo hành lang pháp lý ban đầu, dẫn dắt hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt nam, với những nội dung pháp lý có nhiều tiến bộ, logic hơn, phù hợp hơn so với Điều lệ đầu tư năm 1977. Tuy nhiên, bên cạnh đó Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 không thể tránh khỏi những thiếu sót, hoặc hạn chế mà trong quá trình thực hiện mới phát hiện ra, ví dụ nhiều chỗ Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 chỉ đề cập đến xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng không đề cập đến hợp đồng hợp tác kinh doanh, như thời hạn hoạt động (Điều 15); hoặc trách nhiệm bảo vệ môi trường (Điều 34) tuyển dụng lao động (Điều 16)... hoặc Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 mới chỉ hạn chế liên doanh hai bên (Điều 6); đối tượng Bên Việt nam được phép hợp tác đầu tư chỉ giới hạn các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân và tư nhân phải chung vốn với tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân để thành bên Việt nam (Điều 2 khoản 2); hoặc chỉ cho xí nghiệp liên doanh miễn giảm thuế lợi tức và chuyển lỗ 5 năm (Điều 27) mà không áp dụng cho các hình thức đầu tư khác là không bình đẳng…
Nếu ta ghi nhận Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977 là những chế định pháp lý đầu tiên về đầu tư nước ngoài, thì với Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, chúng ta ghi nhận là đạo Luật Đầu tiên về đầu tư nước ngoài trên đất nước Việt nam, hơn thế nữa, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã mở đường cho sự thu hút vốn đầu tư nước ngoài và thực sự phát huy có hiệu quả, tạo đà cho sự phát triển kinh tế trong những giai đoạn khó khăn. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 làm cầu nối vươn ra bên ngoài và cùng với những nhân tố khác đưa vị thế của Việt nam nâng lên tầm cao mới.
B. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦA LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam ra đời năm 1987, đánh dấu mốc lịch sử hình thành cho đến nay, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam đã qua 4 lần sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất vào năm 1990, lần thứ hai vào năm 1992 và đến năm 2000 đã được thay thế bằng Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam mới và luật này cũng đã được tiếp tục sửa đổi, bổ sung vào năm 2000. Những thời điểm đó đánh dấu những mốc phát triển và hoàn thiện của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam. Sau đây xin trình bầy về quá trình phát triển đó của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam:
I. LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 1990
Như trên đã phân tích, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 qua hơn hai năm thực hiện, từ những kết quả bước đầu đạt được đã cho phép khẳng định: việc ban hành Luật và nội dung cơ bản của Luật là phù hợp với xu thế chung, phù hợp với mục tiêu khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và kỹ thuật vào Việt nam trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt nam, tuân thủ pháp luật Việt nam, bình đẳng và các bên cùng có lợi.
Bên cạnh những kết quả tích cực và đáng khích lệ bước đầu, còn có mặt hạn chế do những nguyên nhân khách quan về tình hình chính trị quốc tế và khu vực hoặc do những thiếu sót của ta trong việc thi hành Luật, đồng thời cũng có một số vấn đề trong bản thân nội dung của Luật chưa thật phù hợp với sự phát triển của nước ta và cũng chưa phù hợp với đòi hỏi của tình hình thực tế. Vì vậy tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá 8 ngày 30/6/1990 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam (sau đây gọi là Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990). Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 gồm 2 điều, đã sửa đổi và bổ sung 15 điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 và tập trung vào 3 vấn đề lớn sau đây:
1. Vấn đề tư nhân tham gia hợp tác với nước ngoài:
Điều 2 khoản 2 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định: 'Các tư nhân Việt nam có thể chung vốn với tổ chức kinh tế Việt nam thành Bên Việt nam để hợp tác kinh doanh với Bên nước ngoài'. Điều này có nghĩa là tư nhân Việt nam kể cả các công ty tư nhân (như quy định chi tiết tại Điều 4 Nghị định 139 - HĐBT) được chung vốn với tổ chức kinh tế Việt nam thành Bên Việt nam để hợp tác kinh doanh với Bên nước ngoài. Quy định này không còn phù hợp với chính sách mới về kinh tế nhiều thành phần đã được ban hành, theo đó, đi đôi với việc củng cố và phát huy vai trò của kinh tế quốc doanh, cần phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế khác, kể cả tiểu chủ, tư bản tư doanh ở thành thị và nông thôn, xoá bỏ những định kiến, hoặc phân biệt đối xử và thiếu bình đẳng trước pháp luật đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Việc mở ra cho tư nhân Việt nam được độc lập đứng ra tham gia hợp tác với nước ngoài là cần thiết để thể hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước ta, tăng cường niềm tin và tạo cơ hội cho các thành phần kinh tế tư nhân tự nguyện bỏ vốn ra và phát huy năng lực của mình để hợp tác kinh doanh với Bên nước ngoài và qua đó, góp phần nâng cao tỷ trọng vốn trong nước trong toàn bộ cơ cấu đầu tư của nền kinh tế, tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
Chủ trương mở ra cho các thành phần kinh tế tư nhân được đứng độc lập thành Bên Việt nam để hợp tác với nước ngoài không có nghĩa là xoá bỏ mọi sự hạn chế đối với họ trong một số lĩnh vực cần đưọc dành riêng cho kinh tế quốc doanh (như:' công nghiệp quốc phòng; khai thác dầu khí và các tài nguyên quý, hiêm; các ngành kinh tế - kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược trong nền kinh tế...). Đồng thời, cần hướng sự hợp tác của tư nhân vào các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu... Mặt khác, cần quy định những điều kiện chặt chẽ như: phải thực sự có năng lực hoạt động, nhất là điều kiện về vốn...
Theo tinh thần trên, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 đã cho phép các tổ chức kinh tế Việt nam có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế được hợp tác đầu tư nước ngoài (Điều 2, khoản 2). Đồng thời hạn chế các tổ chức kinh tế tư nhân Việt nam chỉ được hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài trong những lĩnh vực và điều kiện do Hội đồng Bộ trưởng quy định (cuối Điều 3)
2. Vấn đề liên doanh nhiều bên
2.1. Xí nghiệp liên doanh nhiều bên
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987 mới chỉ cho phép liên doanh hai bên, bao gồm Bên nước ngoài và Bên Việt nam (Khoản 1 Điều 2 và Điều 6)
Thực tiễn hơn hai năm thi hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 cho thấy không phải lúc nào các tổ chức, cá nhân nước ngoài cũng như Việt nam muốn đứng chung thành một Bên nước ngoài hoặc một Bên Việt nam để lien doanh với nhau, rất nhiều trường hợp họ muốn đứng riêng thành từng bên độc lập trong liên doanh. Vì vậy, việc mở ra hình thức liên doanh có nhiều Bên nước ngoài và nhiều Bên Việt nam là cần thiết, xuất phát từ mong muốn chính đáng của nhiều nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, làm cho Luật Đầu tư nước ngoài ngày càng phù hợp với sự vận động và phát triển của quy luật kinh tế.
Trên tinh thần đó, ngoài hình thức liên doanh hai bên, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 đã bổ sung hình thức liên doanh nhiều bên dẫn tới sửa đổi, bổ sung một số khái niệm liên quan tại khoản 4 Điều 2, khoản 5 Điều 2, khoản 6 Điều 2, khoản 10 Điều 2. và sửa đổi, bổ sung vấn đề liên quan đến Hội đồng quản trị tại Điều 12 theo hướng: Trong trường hợp liên doanh nhiều bên thì mỗi bên ít nhất có một thành viên trong Hội đồng quản trị; Nếu trong xí nghiệp liên doanh có một Bên Việt Nam và nhiều Bên nước ngoài hoặc một Bên nước ngoài và nhiều Bên Việt Nam, thì Bên Việt Nam hoặc Bên nước ngoài ít nhất có hai thành viên trong Hội đồng quản trị.
2.1. Xí nghiệp liên doanh mới :
Nhằm mở rộng quy mô và hỗ trợ cho hoạt động của xí nghiệp liên doanh hiện có, đồng thời thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài, trong thực tiến đặt ra nhu cầu một xí nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài (có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt nam) muốn được liên doanh tiếp với một tổ chức kinh tế nước ngoài để thành lập xí nghiệp liên doanh mới có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt nam. Đây là một nhu cầu chính đáng phù hợp với thông lệ quốc tế. Chính vì vậy Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 đã cho phép xí nghiệp liên doanh được hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài để thành lập xí nghiệp liên doanh mới tại Việt Nam (Điều 6), đồng thời bổ sung vào khái niệm 'Xí nghiệp liên doanh' ngoài liên doanh thông thường còn có thêm liên doanh mới do xí nghiệp liên doanh cũ hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh (khoản 10 Điều2):
3. Vấn đề hàng thay thế nhẩp khẩu.
Trong các lĩnh vực được Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 khuyến khích, có vấn đề sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập khẩu (Điều 3 khoản 1). Tuy nhiên, một số quy định trong Luật đã gián tiếp không khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại thị trường Việt nam, ví dụ:
- Điều 16 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy đinh: 'Lương và các khoản phụ cấp khác của người lao động Việt nam được trả bằng tiền Việt nam có gốc tiền nước ngoài'. Điều này trên thực tế ngăn cấm cả việc xí nghiệp dùng những khoản tiền Việt nam thu được bằng cách tiêu thụ sản phẩm tại thị trường Việt nam để trả lương cho người lao động Việt nam.
- Điều 27 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 về điều kiện để được miễn, giảm thuế lợi tức, chỉ qui định căn cứ vào lĩnh vực đầu tư, quy mô vốn đầu tư, khối lượng hàng xuất khẩu, tính chất và thời gian hoạt động để cho hưởng miễn giảm thuế, mà không đề cập gì đến nhân tố hàng thay thế hàng nhập khẩu.
Để mở rộng thị trường trong nước, khuyến khích đầu tư nước ngoài, tiết kiệm ngoại tệ, đi đôi với khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, cần có chính sách khuyến khích đối với việc tiêu thụ ở thị trường nội địa , một tỷ lệ sản phẩm nhất định của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là đối với những mặt hàng thiết yếu mà ta vẫn phải bỏ ngoại tệ ra để nhập khẩu, do trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ đáp ứng nhu cầu (như phân bón, thuốc trừ sâu, dầu nhờn, nhựa đường...) miễn là chất lượng của những sản phẩm đó không qúa thua kèm so với hàng nhập khẩu và giá có phần nào rẻ hơn. Từ những lý do như vậy nên Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 đã sửa đổi, bổ sung Điều 16 cho phép trả lương và các khoản phụ cấp của người lao động Việt nam được trả bằng tiền Việt nam và tiền nước ngoài trích từ tài khoản của xí nghiệp mở tại Ngân hàng (Điều16) và bổ sung vào Điều 27 ngoài các tiêu chí hiện hành để xét cho huởng ưu đãi về thuế lợi tức như: lĩnh vực đầu tư, qui mô vốn đầu tư, khối lượng hàng xuất khẩu, tính chất và thời gian hoạt động, còn bổ sung thêm tiêu chí là khối lượng hàng thay thế hàng nhập thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ.
Tóm lại : Với những sửa đổi, bổ sung như trên của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1990 đã làm cho môi trường đầu tư nước ngoài của Việt nam trong nhưng năm 1990 càng thêm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời thể hiện chính sách 'mở cửa' của Việt nam trên cơ sở tạo hành lang pháp lý ngày càng rõ ràng và hoàn thiện hơn. Nhìn lại lịch sử, có thể nói những năm 90 là sự khởi đầu cho một giai đoạn rất phát triển của đầu tư nước ngoài tại Việt nam, có được sự chuyển biến mạnh mẽ như vậy, không thể phủ nhân vai trò của Luật Đầu tư nước ngoài và càng khẳng định chủ trương sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài năm 1990 là đúng đắn, tuy sự sửa đổi, bổ sung chưa nhiều trong hàng loạt vấn đề còn nổi cộm, nhưng những điểm sửa đổi, bổ sung đã phần nào tháo gỡ những bế tắc về mặt pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt nam trong giai đoạn đó.
II. LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM NĂM 1992
Sau những sửa đổi, bổ sung của Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 nhịp độ tăng trưởng của tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tăng rõ rệt từ 213 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư là 1,793 tỷ USD tại thời điểm năm 1990, chỉ sau 2 năm thực hiện có số đầu tư đã lên đến 459 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư là 5,28 tỷ USD. Điều này chứng tỏ sự sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài đã phần nào tác động đến tâm lý nhà đầu tư, làm cho nhà đầu tư yên tâm hơn khi đầu tư vào Việt nam, và nhiều nhà đầu tư khác quan tâm đến thị trường Việt nam. Từ đó làm nảy sinh nhiều nhu cầu và đòi hỏi cần phải có một hành lang pháp lý hoàn chỉnh hơn. Như trên đã phân tích Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 chỉ sửa đổi, bổ sung được 3 vấn đề lớn trong hàng loạt vấn đề còn nổi cộm và trong quá trình 2 năm sau khi triển khai Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990, nhiều vấn đề pháp lý đã phát sinh, phần nào làm cản trở hoạt động đầu tư nước ngoài. Để đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội đã đặt ra chúng ta cần phải tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện pháp Luật Đầu tư nước ngoài. Tại thời điểm năm 1992 việc đặt vấn đề sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài là cần thiết, bởi lẽ : Một là, thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng trở thành một cuộc cạnh tranh gay gắt vì cung cầu vốn đầu tư trên thế giới có sự biến động lớn; Hai là, thực tiễn hợp tác đầu tư cho phép chúng ta nhận thức rõ hơn vị trí của các mục tiêu, kinh tế, xã hội và tài chính của hoạt động đầu tư. Không khuyến khích đủ mức về tài chính thì không thu hút được nhiều vốn đầu tư, sẽ hạn chế mục tiêu kinh tế, xã hội; mục tiêu kinh tế, xã hội đạt càng thấp thì nguồn thu tài chính sẽ càng eo hẹp; Ba là, tình hình kinh tế của nước ta đã có nhiều biến chuyển tích cực rất có ý nghĩa với sự phát triển của các thành phần kinh tế. Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở pháp lý mới cho việc mở rộng hợp tác với bên ngoài, cụ thể Điều 22 Hiến pháp 1992 quy định “Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật”, Điều 24 quy định: “…phát triển các hình thức quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế …..”, Điều 25 quy định “ Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và công nghệ vào Việt nam phù hợp với pháp luật Việt nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước” ; Bốn là, từ sau khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, nhất là trong vài năm gần đây và triển vọng các năm tới, thực tiễn đầu tư đã và đang xuất hiện một số khả năng và cơ hội mới, những nhu cầu và định hướng mới đòi hỏi phải có những điều chỉnh hành lang pháp lý về đầu tư nước ngoài cho phù hợp.
Từ những sự cần thiết phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài như vậy, ngày 23/12/1992 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài (sau đây goi là Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992). Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 gồm 2 điều, đã sửa đổi, bổ sung 9 điều và bổ sung mới 3 điều, tập trung vào 9 vấn đề chủ yếu sau :
1. Doanh nghiệp tư nhân được tham gia hợp tác với nước ngoài
Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 cho phép các tổ chức kinh tế tư nhân có tư cách pháp nhân được hợp tác kinh doanh với nước ngoài như là những bên độc lập. Tổ chức kinh tế tư nhân có tư cách pháp nhân là các công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần (Điều 18 Luật Công ty). Còn doanh nghiệp tư nhân thì trong Luật doanh nghiệp tư nhân không xác định có tư cách pháp nhân như công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Do đó, doanh nghiệp tư nhân chưa được phép trực tiếp hợp tác kinh doanh với các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, lúc sửa Luật Đầu tư nước ngoài năm 1990 (30/6/1990) thì Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân chưa được thông qua (thông qua vào 31/12/1990), nên những chế định về thành phần kinh tế tư nhân chưa rõ ràng, phần nào ảnh hưởng đến những quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài năm 1990 về thành phần kinh tế tư nhân.
Để cho Luật Đầu tư nước ngoài phù hợp hơn với chính sách kinh tế nhiều thành phần được xác định trong Điều 22 Hiến pháp 1992, đồng thời phát huy khả năng hợp tác đầu tư nói trên của một bộ phận tư nhân Việt Nam, cần cho phép các doanh nghiệp tư nhân cũng được trực tiếp hợp tác đầu tư với nước ngoài như các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Do đó Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 đã sửa đổi điểm 2 Điều 2 của Luật Đầu tư nước ngoài như sau: “Bên Việt Nam là một bên gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế”
2. Việc góp vốn của Bên Việt Nam (bằng các nguồn tài nguyên; quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển; tiền nước ngoài)
2.1. Điều 7 khoản 2 mục 2 của Luật Đầu tư nước ngoài quy định: Bên Việt Nam tham gia xí nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng ” các nguồn tài nguyên'. Trong thời gian từ 1992 trở về trước, chưa có trường hợp nào Bên Việt Nam tham gia liên doanh góp vốn bằng nguồn tài nguyên. Tài nguyên là sở hữu Nhà nước, phải được quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng; không thể coi tài nguyên là nguồn vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp Việt Nam để liên doanh với nước ngoài dưới dạng góp vốn một cách tràn lan hay tự do được. Do đó, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 đã cho phép Bên Việt nam góp vốn bằng các nguồn tài nguyên nhưng hạn chế trong phạm vi quy định của Chính phủ (khoản 2 Điều7).
2.2. Luật Đầu tư nước ngoài trước thời điểm sửa luật năm 1992 cho phép Bên Việt Nam tham gia xí nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển (Điều 7 khoản 2 mục 4). Quy định như vậy dễ dẫn tới tràn lan, phá vỡ quy hoạch và ưu tiên không đúng đối tượng. Nhằm tránh những sự lỏng lẻo trong việc sử dụng đất, quản lý chặt chẽ và bảo đảm dử dụng hiệu quả của việc dùng quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh. Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 đã sửa đổi, bổ sung mục 4 khoản 2 Điều 7 cho phép Bên Việt Nam tham gia xí nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng giá trị quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển theo quy định của Chính phủ. Trên cơ sở đó, Chính phủ quy định khung giá, đồng thời quy định trường hợp Bên Việt Nam dùng tiền thuê đất của Nhà nước để góp vốn thì cần làm thủ tục nhận nợ và hoàn trả vốn ngân sách Nhà nước.
2.3. Từ năm 1992 trở về trước, Luật Đầu tư nước ngoài không cho phép Bên Việt nam góp vốn bằng ngoại tệ, trong khi đó Quy chế quản lý ngoại hối lại không cấm các doanh nghiệp Việt nam giao dịch bằng ngoại tệ thông qua tài khoản, do đó các doanh nghiệp Việt nam vẫn có nguồn thu ngoại tệ từ việc xuất khẩu tại chỗ hoặc xuất khẩu sản phẩm... Trên thực tế có trường hợp Bên Việt nam có ngoại tệ nhưng phải đổi ra tiền Việt nam để đóng góp vào liên doanh, sau đó do xí nghiệp liên doanh có nhu cầu phải mua nguyên liệu từ nước ngoài, nên số tiền Việt nam này lại phải qua ngân hàng để đổi ra ngoại tệ để nhập khẩu nguyên liệu.... Việc không cho Bên Việt nam góp vốn bằng ngoại tệ là không hợp lý, làm cho Bên Việt nam phải mất hai lần phí chuyển đổi ngoại tệ, đồng thời thủ tục rườm ra, mất thời gian ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 đã sửa đổi, bổ sung vào Điều 7 khoản 2 mục 1 cho phép Bên Việt Nam tham gia xí nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng tiền nước ngoài.
3. Tăng dần tỷ trọng vốn góp Bên Việt Nam
Luật Đầu tư của một số nước quy định: trong một số lĩnh vực, nhà đầu tư nước ngoài không được phép kinh doanh hoặc chỉ được chiếm một tỷ trọng vốn thấp hoặc đến một giới hạn nhất định. Luật Đầu tư nước ngoài của nước ta không giới hạn tỷ lệ góp vốn tối đa của Bên nước ngoài trong xí nghiệp liên doanh, thậm chí cho phép nước ngoài đầu tư 100% vốn, chủ yếu do ta thiếu vốn. Tuy nhiên, lợi ích quốc gia đòi hỏi các bên Việt Nam phải nỗ lực tăng tích luỹ để tăng dần tỷ trọng vốn góp, trước hết trong những công trình quan trọng có ảnh hưởng lớn tới kinh tế, xã hội.
Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 đã bổ sung quy định việc tăng dần vốn góp của Bên Việt Nam bằng cách thoả thuận ngay từ đầu tiến độ tăng dần tỷ lệ phần vốn pháp định của Bên Việt nam hoặc trong quá trình kinh doanh Bên Việt nam mua lại từng phần vốn của Bên nước ngoài đối với cơ sở kinh tế quan trọng (Cuối đoạn 2 Điều 8 và cuối Điều 14).
4. Thời hạn hoạt động của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định: “Thời hạn hoạt động của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không quá 20 năm. Trong trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể dài hơn”(Điều15), sau đó Nghị định 139 đã cụ thể hoá thời hạn tối đa là 50 năm (Điều 43), nhưng trên thực tế vận dụng để cho phép thời hạn đến 50 năm là rất hãn hữu. Một phần vì tính pháp lý không cao chỉ ở mức Nghị định của Chính phủ, nên khi thi hành cơ quan cấp phép không dám áp dụng rộng rãi cho phép thời hạn đến 50 năm, trong khi các nước xung quanh ta cho phép thời hạn dài hơn, như Malaysia cho phép 80 năm, Singapore cho phép 99 năm …. Nên phần nào hạn chế các nhà đầu tư triển khai những dự án quy mô lớn, những công trình có độ lâu bền cao, kỹ thuật tiên tiến, không thể xây dựng những khu công nghiệp tập trung…. Vì vậy, Điều 15 của Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 đã sửa đổi cho phép thời hạn hoạt động của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thông thường không quá 50 năm, trong trường hợp theo quy định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì thời hạn có thể dài hơn, nhưng tối đa không quá 70 năm.
5. Mở tài khoản tại ngân hàng ở nước ngoài
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 chỉ cho phép xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mở tài khoản tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài đặt tại Việt Nam (Điều 17). Theo đó thì các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được mở tài khoản tại ngân hàng ở nước ngoài. Trên thực tế từ năm 1992 trở về trước có không ít dự án đầu tư xin được mở tài khoản tại ngân hàng ở nước ngoài, nhất là đối với phần vốn vay tại nước ngoài. Người cho vay chỉ cho vay khi khoản vay này mở tài khoản ở ngân hàng tại nước ngoài. Các nhà đầu tư cho rằng đây là một thông lệ quốc tế và rất cần thiết cho hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, do có nhiều khó khăn, phức tạp trong quản lý nên nếu cho phép thì cũng chỉ giới hạn trong một số ít trường hợp đặc biệt cần thiết. Do đó, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng cho phép xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mở tài khoản bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài tại Ngân hàng Việt Nam hoặc tại Ngân hàng liên doanh hoặc tại chi nhánh ngân hàng nước ngoài đặt ở Việt Nam. Trong trường hợp đặc biệt được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép mở tài khoản vốn vay tại Ngân hàng ở nước ngoài (Điều 17)
6. Về khu chế xuất
Thực tiễn của nhiều nước chỉ rõ thành lập Khu chế xuất là một hình thức đầu tư có sức hấp dẫn, thu hút được nhiều vốn đầu tư và tạo được nhiều việc làm, tăng nhanh khả năng xuất khẩu, góp phần tác động tích cực tới kinh tế nội địa. Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị dịnh định số 322/HĐBT ngày 18/10/1991 kèm theo Quy chế Khu chế xuất để chỉ đạo việc xây dựng Khu chế xuất mang tính thí điểm. Các nhà đầu tư nước ngoài muốn Nhà nước ta có một văn bản pháp luật cao hơn để họ yên tâm đầu tư vào Khu chế xuất. Do đó, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 đã luật hoá quy định về Khu chế xuất với nội dung chủ yếu như sau:
- Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và thực hiện các dịch vụ xuất khẩu. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài và các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần Việt Nam được phép tiến hành đầu tư trong Khu chế xuất. (Điều 19a đoạn 2)
- Quan hệ trao đổi hàng hoá giữa các xí nghiệp chế xuất với các doanh nghiệp trong thị trường nội địa được coi là quan hệ ngoại thương chứ không phải quan hệ nội thương, tuân theo các quy định của pháp luật xuất nhập khẩu và Luật thuế xuất nhập khẩu. (Điều 19a đoạn 3)
7. “Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao” (BOT).
Xây dựng các công trình hạ tầng như cầu đường, bến cảng, cấp nước là ưu tiên hàng đầu của Nhà nước ta, nhất là trên các hành lang trọng điểm. Xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi số vốn đầu tư lớn, nhưng việc thu hồi vốn có rất nhiều khó khăn. Thông thường việc xây dựng công trình hạ tầng dựa vào nguồn vốn ngân sách Nhà nước, sự tài trợ của Chính phủ các nước và tổ chức tài chính quốc tế; nhưng trong một chừng mực nhất định, có thể kêu gọi đầu tư trực tiếp của các nhà kinh doanh. Tuy nhiên, nếu không có chính sách khuyến khích thoả đáng và cơ chế đầu tư thích hợp thì không tạo được sự quan tâm của nhà đầu tư. Cơ chế đặc thù “Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao” (BOT), một sáng kiến của cộng đồng quốc tế, đã áp dụng ở nhiều nước, đã mang lại những kết quả đáng khích lệ trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là ở những nước mà nguồn vốn ngân sách rất hạn hẹp. Trong cơ chế này, nhà đầu tư tự nguyện bỏ vốn xây dựng công trình, tự khai thác kinh doanh công trình trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và lợi nhuận, sau đó chuyển giao công trình cho Nhà nước. Phương thức đầu tư này khác với các hình thức đầu tư khác ở các điểm chủ yếu sau: đây là hợp đồng ký kết giữa một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với chủ đầu tư, chứ không phải giữa các công ty; việc thu hồi vốn và lợi nhuận được Nhà nước bảo đảm bằng nhiều biện pháp, chẳng hạn bảo đảm về giá phí, nguồn cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm..... do đó có tính ổn định cao. Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 đã bổ sung Điều 19b quy định về vấn đề BOT nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc mở rộng thêm phương thức đầu tư mới, để thu hút thêm nhà đầu tư vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng.
8. Bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi thay đổi của pháp luật
Một trong những tiêu chí quan trọng để quyết định đầu tư, đó là pháp luật và chính sách của nơi đầu tư phải ổn định, để không làm đảo lộn các tính toán kinh. Nhưng đứng về giác độ quản lý vĩ mô của Nhà nước, một khi thực tiễn thay đổi thì pháp luật, chính sách cần phải thay đổi cho phù hợp, nhất là ở nước ta đang trong quá trình đổi mới, nhiều chính sách của Nhà nước đang cần được điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện, đồng bộ trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Để giải quyết mâu thuẫn nói trên phát sinh trong thực tiễn một cách khách quan, cần có giải pháp thích hợp về mặt pháp luật.
Theo tập quán quốc tế, Giấy phép đầu tư do Nhà nước cấp không những xác định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của nhà đầu tư mà còn được coi là cam kết giữa Nhà nước và nhà đầu tư. Vì vậy, để bảo đảm “chữ tín”, làm yên lòng các nhà đầu tư, đồng thời để phù hợp với pháp luật quốc tế, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 đã bổ sung vào đoạn cuối Điều 21 theo tinh thần khi có thay đổi quy định của pháp luật Việt Nam làm thiệt hại cho lợi ích của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh và xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp giấy phép thì Nhà nước có biện pháp giải quyết thoả đáng đối với quyền lợi của nhà đầu tư. Đây là một nguyên tắc rất quan trọng mà được áp dụng rất rộng rãi trên thế giới.
9. Cho xí nghiệp 100% vốn nước ngoài được hưởng các khuyến khích về thuế như xí nghiệp liên doanh.
Trong Luật Đầu tư nước ngoài có sự phân biệt chế độ ưu đãi về thuế giữa xí nghiệp liên doanh và xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, đó là xí nghiệp liên doanh được hưởng ba điều ưu đãi mà xí nghiệp 100% không được hưởng, Một là : Được miễn thuế lợi tức trong khoản 2 năm đầu và giảm 50% thuế lợi tức trong năm tiếp theo; Hai là: Trong trường hợp đặc biệt được hưởng khung thuế lợi tức thấp nhất 10-15%; Ba là: Được chuyển lỗ tối đa là 5 năm.
Khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, mục đích chính của ta là khuyến khích hình thức xí nghiệp liên doanh, vì trong đó có phần góp vốn của Bên Việt Nam và ta muốn thông qua hình thức xí nghiệp liên doanh để học hỏi kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường, thông qua Bên Việt Nam trong liên doanh để giám sát, kiểm tra hoạt động của xí nghiệp. Đến nay chủ trương này vẫn đúng. Nhưng thực tiễn thi hành Luật Đầu tư nước ngoài cho thấy trong những năm đầu thực hiện Luật, nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn thành lập xí nghiệp liên doanh vì họ chưa quen thị trường Việt Nam, họ muốn thông qua Bên Việt Nam trong liên doanh để cùng chia xẻ rủi ro và lo các thủ tục cần thiết. Cho đến thời điểm năm 1992, nhiều nhà đầu tư nước ngoài, nhất là những người đã quen thị trường Việt Nam và có ý đồ làm ăn lớn, có xu hướng muốn thành lập xí nghiệp 100% vốn nước ngoài hơn là xí nghiệp liên doanh vì họ rất khó tìm được đối tác Việt Nam thích hợp để liên doanh, vì có nhiều tranh chấp đã diễn ra trong thực tế liên doanh. Đồng thời với “nguyên tắc nhất trí” theo Luật định, Bên Việt Nam trong hội đồng quản trị xí nghiệp liên doanh tuy có tỷ trọng vốn góp rất thấp nhưng lại có quyền “phủ quyết” đối với những vấn đề quan trọng về tổ chức và hoạt động của xí nghiệp. Nếu nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lại không được hưởng những khuyến khích về tài chính như xí nghiệp liên doanh. Họ bị đặt trước tình huống phải cân nhắc, nhiều khi ngần ngại kéo dài và dễ đi đến “bỏ cuộc”. Trên cơ sở đó Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 đã bổ sung vào cuối Điều 27 một đoạn theo tinh thần cho xí nghiệp 100% vốn nước ngoài được hưởng ưu đãi về thuế lợi tức như xí nghiệp liên doanh.
III. LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 1996
Cho đến 1996, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987 đã được sửa đổi, bổ sung 2 lần vào những năm 1990, 1992, đó là những bước rất quan trọng góp phần vào việc tạo lập hành lang pháp lý ngày càng hoàn chỉnh nhằm tăng tính hấp dẫn và cải thiện môi trường đầu tư tại Việt nam, từ đó đưa đến những kết quả tăng trưởng rõ rệt.
Luật Đầu tư nước ngoài cũng như nhiều văn bản dưới luật được ban hành trong hoàn cảnh ta chưa có kinh nghiệm về hợp tác đầu tư trực tiếp với nước ngoài, nhưng về cơ bản đã dựng lên được một khuôn khổ pháp lý phù hợp với đường lối quan điểm của Đảng về kinh tế đối ngoại. Luật Đầu tư nước ngoài đã có những quy định vừa rộng rãi vừa chặt chẽ, bảo đảm cho nhà đầu tư nước ngoài an toàn về đầu tư và quyền tự chủ kinh doanh, đồng thời bảo đảm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, tuân thủ pháp luật của Việt Nam và bình đẳng, cùng có lợi. Tuy nhiên, đến thời điểm năm 1996, khi đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, nhìn lại hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài, chúng ta thấy nhiều nhược điểm cần được khắc phục trong hoàn cảnh mới. Những nhược điểm đó là : Một số quy định quá chung, không đủ mức cụ thể để dễ thi hành; Thiếu tính đồng bộ, nhiều văn bản còn chồng chéo và thiếu tính cập nhật; Thủ tục hành chính quá phức tạp, rườm rà; chủ trương và quy hoạch chưa đủ mức cụ thể, làm cho các nhà đầu tư mất nhiều thời gian tìm hiểu, làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước khó khăn trong việc xử lý.
Những thành tựu quan trọng của 10 năm đổi mới, đặc biệt là sự tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm với nhịp độ cao, việc nâng cao một bước năng lực sản xuất xã hội, năng lực xuất khẩu, mức sống của nhân dân và sức mua của thị trường trong nước, những cố gắng rất lớn để hình thành và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đã tạo ra cho Việt Nam một hình ảnh mới trên thế giới như là một thị trường thương mại và đầu tư có sức hấp dẫn. Đây là cơ hội mà ta có thể tranh thủ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài với qui mô lớn hơn, chất lượng cao hơn để phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài càng có ý nghĩa quan trọng, đáp ứng nhu cầu to lớn cho đầu tư phát triển. Hoạt động hợp tác đầu tư của ta với nước ngoài từ 1996 trở đi đứng trước những cơ hội và thách thức mới, số nước gia nhập vào cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng đông, làm cho cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt hơn trước. Trong cuộc cạnh tranh này, nhiều nước đã tiến hành những cải cách theo hướng thông thoáng hơn nhằm vượt lên trên những nước khác.
Từ bối cảnh của tình hình mới và từ những nhược điểm của Luật Đầu tư nước ngoài và trên cơ sở các mục tiêu :
- Chuẩn xác hóa các biện pháp khuyến khích đầu tư theo hướng tiếp tục tăng cường khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, tập trung vào những mục tiêu trọng điểm trong chương trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
- So sánh với các biện pháp khuyến khích ở các nước trong khu vực để các điều kiện khuyến khích đầu tư ở nước ta không thể kém hấp dẫn hơn các nước trong khu vực;
- Cụ thể hóa những quy định còn quá chung chung, bổ sung vào Luật những qui định đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn, luật hóa những quy định quan trọng đã được kiểm nghiệm là đúng đắn nhưng chỉ mới được ban hành ở dạng văn bản duới luật;
- Từng bước tiến tới sự nhích dần giữa hệ thống pháp Luật Đầu tư nước ngoài và pháp Luật Đầu tư trong nước, chỉ giữ lại những khác biệt mà điều kiện trong nước chưa cho phép loại bỏ;
- Tăng cường khâu tổ chức quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo cơ sở pháp lý cao hơn tạo chuyển biến một cách cơ bản nhằm đơn giản hóa thủ tục đầu tư, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Quốc hội khoá 9 kỳ họp thứ 10 ngày 12/11/1996 đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài mới (sau đây gọi là Luật Đầu tư nước ngoài 1996). Luật Đầu tư nước ngoài 1996 được soạn thảo trên cơ sở gộp các Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992, Luật Đầu tư nước ngoài 1996 gồm 6 chương 68 điều với cấu trúc như sau:
Chương 1: Những quy định chung
Chương 2: Hình thức đầu tư
Chương 3: Biện pháp bảo đảm đầu tư
Chương 4: Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Chương 5: Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
Chương 6: Điều khoản thi hành
Dưới đây xin nêu một số nội dung cơ bản của Luật Đầu tư nước ngoài 1996 như sau:
1. Những lĩnh vực khuyến khích đầu tư nước ngoài
Chuẩn xác lại Lời nói đầu và Điều 3 của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, 1990, 1992 theo tinh thần không khuyến khích tràn lan, mà hướng đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào những mục tiêu trọng điểm của chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trước hết là nhằm thu hút vốn đầu tư vào những dự án có chuyển giao công nghệ, tạo ra năng lực công nghệ tiên tiến, năng lực xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế (Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, 1990, 1992 quy định còn đồng đều, vì vậy tuy có hạn chế du nhập công nghệ cũ, nhưng chưa thu hút được công nghệ cao).
Đồng thời, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã quy định cơ chế giao cho Chính phủ căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế từng thời kỳ công bố danh mục các dự án khuyến khích, đặc biệt khuyến khích và các dự án cấm đầu tư nước ngoài hoặc đầu tư nước ngoài có điều kiện nhằm định hướng và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài trong việc lựa chọn dự án đầu tư cũng như cho cơ quan quản lý trong việc xem xét, duyệt dự án đầu tư. Tránh tình trạng quy định quá chung chung như trước đây, dẫn tới nhà đầu tư thì được tuyên truyền là nhà nước Việt nam khuyến khích đầu tư, nhưng khi vào các dự án cụ thể thì gặp rất nhiều vướng mắc, tốn kém, mất nhiều thời gian, mà nhiều khi không đi đến một kết quả rõ ràng.
2. Chính sách ưu đãi đặc biệt
Cơ cấu đầu tư trực tiếp của nước ngoài được hình thành trong những năm từ 1996 trở về trước cho thấy: Các biện pháp khuyến khích hiện hành chưa đủ sức thu hút đầu tư nước ngoài vào một số mục tiêu ưu tiên quan trọng mà ta rất cần như trồng rừng; giống cây và con; tạo vùng nguyên liệu; chế biến nông sản, lâm sản, hải sản; đầu tư vào các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa...
Do đó Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định bổ sung một số ưu đãi đặc biệt đối với một số dự án đặc biệt như :
- Không thu tiền thuê đất hoặc chỉ thu tượng trưng, cụ thể là đối với dự án BOT, dự án đầu tư vào miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa và các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư khác, Chính phủ có thể miến hoặc giảm tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển (Điều 46);
- Miễn thuế lợi tức tối đa là 8 năm (Điều 39).
3. Vấn đề hoàn thuế khi tái đầu tư
Theo quy định tại thời điểm trước khi có Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 thì khái niệm về tái đầu tư và chính sách hoàn thuế cho phần lợi nhuận tái đầu tư có những điểm chưa rõ, chưa cụ thể hoặc không còn thích hợp. Việc hoàn lại toàn bộ thuế lợi tức được áp dụng đương nhiên và giống nhau đối với mọi lĩnh vực và các loại dự án trong nhiều trường hợp là không có lợi cho nước ta. Do vậy, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã sửa đổi, bổ sung về vấn đề này theo tinh thần sau :
- Xác định tái đầu tư là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài dùng lợi nhuận thu được từ các hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt nam để tăng phần vốn của mình trong dự án đang hoạt động hoặc đầu tư mới tại Việt Nam.
- Việc hoàn thuế lợi tức cho phần lợi nhuận tái đầu tư chỉ áp dụng đối với các dự án thuộc diện được khuyến khích đầu tư. Tỷ lệ hoàn thuế tùy mức độ quan trọng về mục tiêu, địa bàn, hình thức và thời hạn tái đầu tư.
4. Vấn đề miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư, xe ô tô
Theo quy định tại thời điểm trước khi có Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 thì thiết bị, vật tư, phương tiện vận tải nhập vào Việt Nam để góp vốn hình thành xí nghiệp hoặc để tạo tài sản cố định thực hiện Hợp đồng hợp tác kinh doanh đều được miễn thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, do doanh nghiệp trong nước không được miễn thuế nhập khẩu vật tư và phương tiện vận chuyển, nên để tránh sự phân biệt và ưu đãi thái quá ta đã áp dụng trong những năm đầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời cũng là biện pháp ngăn chặn chủ đầu tư nước ngoài lạm dụng nhập vật tư, xe vận tải miễn thuế để bán lại trong nước thu chênh lệch, đồng thời tiến tới một bước nhích lại quan trọng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã quy định : 'Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ nhập khẩu vào Việt Nam để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc để tạo tài sản cố định thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc mở rộng quy mô dự án đầu tư và phương tiện vận chuyển nhập khẩu dùng để đưa đón công nhân được miễn thuế nhập khẩu.' (Điều 47), còn vật tư, phương tiện vận tải và các thiết bị, máy móc, phụ tùng không thuộc diện nêu trên thì phải nộp thuế nhập khẩu theo quy định chung của pháp luật.
5. Chuyển giao công nghệ
Trước đây Luật Đầu tư nước ngoài chưa có quy định về thời hạn chuyển giao công nghệ, trong khi Điều 810 của Bộ luật dân sự quy định : 'Hợp đồng chuyển giao công nghệ có thời hạn không quá bảy năm, kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể cho phép kéo dài thời hạn hợp đồng, nhưng không quá mười năm' Do đó Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã Bổ sung Điều 29 quy định về việc chuyển giao công nghệ 'phải phù hợp với pháp luật về chuyển giao công nghệ', điều đó có nghĩa công nghệ chuyển giao vào Việt nam của các dự án đầu tư nước ngoài ngoài việc phải tuân thủ các quy định chung về chuyển giao công nghệ còn phải tuân thủ về thời hạn chuyển giao mà đã được quy định tại Điều 810 Bộ luật dân sự như đã nêu trên..
6. Cho Bên nước ngoài góp vốn bằng tiền Việt Nam.
Nhằm hỗ trợ cho việc tự cân đối thu chi ngoại tệ và để khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tái đầu tư vào các mục tiêu được khuyến khích, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài được góp vốn bằng tiền Việt Nam có nguồn gốc từ đầu tư tại Việt nam
7. Về doanh nghiệp liên doanh mới
Đoạn 2, Điều 6 Luật Đầu tư nước ngoài trước năm 1996 quy định Xí nghiệp liên doanh được hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài để thành lập xí nghiệp liên doanh mới tại Việt Nam. Do nhu cầu thực tế nên Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 bổ sung Điều 6 của Luật Đầu tư nước ngoài trước năm 1996 quy định cho phép doanh nghiệp liên doanh đang hoạt động được liên doanh tiếp với một hoặc nhiều tổ chức kinh tế Việt Nam để thành lập doanh nghiệp liên doanh mới.
8. Vấn đề cân đối ngoại tệ
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã luật hoá quy định về việc Nhà nước hỗ trợ về cân đối ngoại tệ cho các công trình hạ tầng, sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu và các công trình đặc biệt khuyến khích khác, mà đã được quy định trong Nghị định 18/CP[2], đồng thời mở rộng ra cho các hình thức đầu tư nói chung, chứ không như quy định trong Nghị định 18/CP trước đây là việc cân đối ngoại tệ chỉ áp dụng cho xí nghiệp liên doanh. Đây là một sự mở rộng diện bảo đảm hỗ trợ của Nhà nước về cân đối ngoại tệ, điều mà các nhà đầu tư rất quan tâm khi quyết định đầu tư.
9. Chính sách về người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 44)
Ngày 27 tháng 5 năm 1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 29/CP quy định chính sách khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. Trên cơ sở đó, Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư (nay là Bộ kế hoạch và đầu tư) và Uỷ ban về người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã ban hành Thông tư liên Bộ 479/TTTL để cụ thể hoá chính sách đó. Để nâng cao hiệu lực và thể hiện sư quan tâm của Nhà nước ta, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã luật hoá những ưu đãi đối với người Việt nam định cư ở nước ngoài mà đã được quy định trong các văn bản dưới luật nêu trên, theo hướng cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài được giảm 20% thuế lợi tức so với các dự án cùng loại, trừ trường hợp được hưởng mức thuế lợi tức là 10% và được hưởng mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài ở mức thấp nhất là 5% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài.
10. Vấn đề Khu Công nghiệp
Trước khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 thì quy định về Khu Công nghiệp có nhược điểm lớn là : Các chủ thể cùng kinh doanh trên một địa điểm, nhưng vì là đối tượng điều chỉnh của những Luật khác nhau (các Luật đối với doanh nghiệp trong nước và Luật Đầu tư nước ngoài) nên thủ tục, quyền lợi và nghĩa vụ được điều chỉnh một cách khác nhau, làm bộc lộ rõ nét sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn nước ngoài, đồng thời gây nên nhiều phức tạp cho công tác quản lý và thi hành luật đối với các khu công nghiệp. Nhằm từng bước tạo ra sự nhích gần giữa đầu tư trong nước với đầu tư nước ngoài, đồng thời xuất phát từ phương hướng ưu tiên các doanh nghiệp trong nước xây dựng hạ tầng Khu công nghiệp, khuyến khích đưa vốn trong nước vào đầu tư phát triển Khu công nghiệp, nâng dần tỷ trọng vốn trong nước trong Khu Công nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã “luật hóa” vấn đề Khu Công nghiệp cũng như đã luật hoá Khu chế xuất và cho nhà đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp và đầu tư vào Khu Công nghiệp đuợc hưởng các ưu đãi như nhau về thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu theo Luật Đầu tư nước ngoài và Quy chế Khu công nghiệp.
11. Chi nhánh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Trong thực tiễn hoạt động đầu tư, do nhu cầu kinh doanh, một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài hợp doanh được cơ quan quản lý đầu tư cho phép mở chi nhánh ở các tỉnh,thành phố khác trong cả nước để tiến hành các hoạt động kinh doanh như: phân phối và tiêu thụ sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất. Loại hình chi nhánh này khác với loại hình chi nhánh do các công ty mẹ ở nước ngoài thành lập, không phải là pháp nhân Việt Nam và do Luật Thương mại điều chỉnh. Do đó, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã “luật hoá” quy định cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài hợp doanh được mở chi nhánh với các điều kiện: Chi nhánh phải hoạt động theo đúng mục tiêu quy định trong Giấy phép đầu tư, được Uỷ ban Nhân dân địa phương chấp thuận và được cơ quan Nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài chuẩn y.
12. Góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất
Trước đây, doanh nghiệp tư nhân được phép góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong mọi trường hợp, nhưng từ khi ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất ngày 27/8/1996, thì tại Điều 1 khoản 4 của Pháp lệnh nói trên về bổ sung Điều 6a tại mục 4 chỉ quy định cho phép đối tượng là doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, xã hội, doanh nghiệp quốc phòng, an ninh thì mới được góp vốn liên doanh với nước ngoài, còn công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn không đựơc đề cập tới, điều đó có nghĩa công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn không đựơc dùng quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh với nước ngoài, vấn đề này đã làm xôn xao trong giới doanh nghiệp tư nhân lúc bấy giờ. Để có sự thống nhất với hệ thống văn bản pháp luật về đất đai, mà cụ thể là Pháp lệnh nói trên, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã bổ sung vào Điều 7 quy định Bên Việt nam tham gia góp vốn pháp định bằng giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai . Quy định mang tính dẫn chiếu như vậy có nghĩa các đối tượng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất ngoài việc phải tuân thủ các quy định chung về đất đai, còn phải tuân thủ theo Pháp lệnh nói trên.
13. Về nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị xí nghiệp liên doanh
Quy định của pháp luật về nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị trước khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 không được nhiều nhà đầu tư nước ngoài tán thưởng với lý do không hoàn toàn xác đáng và trái với thông lệ quốc tế. Do quy định quá chung, còn quy định chi tiết trong Nghị định 18-CP phần nào lại rộng, bao gồm cả một số vấn đề không nhất thiết phải theo nguyên tắc nhất trí như quyết định phương hướng, kế hoạch sản xuất, vay vốn lưu động, cử và miễn nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị (thực chất Chủ tịch Hội đồng quản trị không phải do các thành viên Hội đồng quản trị bầu ra mà do các bên liên doanh cử luân phiên).
Về thực chất, đây là một qui định nhằm dành cho Bên Việt Nam quyền phủ quyết trên những vấn đề xét thấy có thể gây tổn thất lớn đến lợi ích của mình mà không có khả năng dành đa số phiếu để bác bỏ do tỷ lệ góp vốn thường quá thấp so với Bên nước ngoài. Trong một thời gian tương đối dài trước mắt, tỷ lệ góp vốn trong các xí nghiệp liên doanh nói chung vẫn chưa có thể thay đổi được một cách có lợi cho Bên Việt Nam, nên về cơ bản vẫn cần phải duy trì quy định đó. Vì vậy, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã sửa đổi, bổ sung các vần đề quan trọng nhất như bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc thứ nhất, Kế toán trưởng; sửa đổi, bổ sung điều lệ doanh nghiệp; duyệt quyết toán thu chi tài chính hàng năm và quyết toán công trình; vay vốn đầu tư thì quyết định theo nguyên tắc nhất trí giữa các thành viên Hội đồng quản trị có mặt tại cuộc họp. Tuy nhiên Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 còn quy định một cơ chế cho phép các bên liên doanh có thể thoả thuận trong Điều lệ doanh nghiệp các vấn đề khác cần được quyết định theo nguyên tắc nhất trí, các vấn đề khác sẽ áp dụng nguyên tắc đa số (Điều14)
14. Thuế chuyển nhượng vốn
Điều 30 Nghị định 18-CP qui định: “..Trong trường hợp giá trị chuyển nhượng cao hơn giá trị ban đầu thì Bên chuyển nhượng phải nộp thuế theo pháp luật Việt Nam”. Tại Thông tư 215/UB-LXT ngày 8/2/1995 của Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư[3] (nay là Bộ kế hoạch và đầu tư) đã quy định mức thuế đó bằng 25% phần chênh lệch do chuyển nhượng.
Các quy định trên đây tuy là phù hợp và trên thực tế cũng đã được thực hiện, nhưng không được quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài hoặc các luật về thuế, nên tính pháp lý không cao. Do vậy Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã “luật hóa” các quy định trên đây với nội dung: Bên chuyển nhượng phải nộp thuế tối đa bằng 25% mức chênh lệch phát sinh, tuy nhiên nếu nhà đầu tư nước ngoài chuyển nhượng cho Bên Việt Nam thì sẽ được miễn hoặc giảm thuế lợi tức (Điều 34)
15. Về chế độ kế toán
Do chế độ kế toán của Việt nam đã có nhiều thay đổi phù hợp với thông lệ quốc tế, nên Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã khằng định nguyên tắc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh áp dụng chế độ kế toán Việt Nam. Tuy nhiên, cũng mở ra trường hợp ngoại lệ nếu cần áp dụng chế độ kế toán thông dụng khác thì phải được Bộ Tài chính chấp thuận. Trường hợp ngoại lệ là rất hạn hữu, theo tinh thần chỉ cho phép đối với những công ty, tập đoàn lớn cần phải có sự thống nhất về kế toán toàn cầu hoặc áp dụng đối với một số lĩnh vực đặc biệt, như dầu khí, viễn thông....
16. Về bảo hiểm
Trước đây chỉ quy định việc bảo hiểm tài sản của đối tượng là xí nghiệp liên doanh và các bên trong liên doanh có quyền thoả thuận lựa chọn mua bảo hiểm ở Công ty bảo hiểm Việt Nam hoặc tại các công ty bảo hiểm khác kể cả ở nước ngoài. Nhưng Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã quy định cụ thể, chuẩn xác và chặt trẽ hơn cả về đối tượng, nội dung và phạm vi bảo hiểm. Cụ thể Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã quy định doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh (trước đây chỉ có xí nghiệp liên doanh) bảo hiểm tài sản và trách nhiệm dân sự (trước đây chỉ bắt buộc mua bảo hiểm tài sản) tại công ty bảo hiểm Việt Nam hoặc tại công ty bảo hiểm khác được phép hoạt động tại Việt Nam (có nghĩa không được mua bảo hiểm ở nước ngoài như trước đây nữa)
17. Thủ tục đầu tư
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 tạo cơ sở pháp lý cao hơn cho việc đơn giản hoá thủ tục đầu tư và tăng cường pháp chế trong đầu tư, cụ thể là :
- “Luật hóa” các quy định về thời hạn cấp giấy phép đầu tư và các loại giấy phép khác theo tinh thần rút ngắn thời gian và đơn giản hóa thủ tục theo, cụ thể là thời gian 60 ngày phải trả lời việc cấp phép đầu tư (trước đây là 90 ngày); các Bộ ngành và các địa phương giải quyết các thủ tục liên quan đến việc triển khai dự án trong vòng 30 ngày....
- Để nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định: Nhà đầu tư nước ngoài có quyền khiếu nại, khởi kiện đối với việc giải quyết chậm các thủ tục, gây phiền hà của các cơ quan Nhà nước, tổ chức và công chức Nhà nước. (Điều 64). Đồng thời, quy định về biện pháp chế tài đối với nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, tổ chức, cá nhân, viên chức, cơ quan nhà nước vi phạm các quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài (Điều 63).
18. Cơ chế “ Một cửa”
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 làm rõ sự phân công phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài trên cơ sở cơ chế 'một cửa', lấy Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư do luật định làm đầu mối. Cơ quan làm “đầu mối” được hiểu là cơ quan được giao trách nhiệm chủ trì việc điều phối các Bộ, ngành, địa phương... trong tất cả những công việc về đầu tư trực tiếp nước ngoài từ khâu xây dựng chiến lược, quy hoạch, pháp luật, chính sách, giải quyết các vấn đề phát sinh, theo dõi kiểm tra các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuân thủ các quy định của Giấy phép đầu tư, tuân thủ pháp luật; bảo vệ lợi ích của bên Việt Nam, của Nhà nước Việt Nam. Để làm việc này, Cơ quan đầu mối phải trực tiếp làm việc với các Bộ, ngành, Uỷ ban Nhân dân địa phương. Các Bộ, ngành, Uỷ ban Nhân dân địa phương có trách nhiệm phối hợp với Cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư về tất cả các vấn đề có liên quan. Tuy nhiên, Cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư không phải là “cơ quan chủ quản” của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, và cũng không phải là cơ quan làm thay chức năng của các Bộ, ngành, địa phương. Các Bộ, ngành, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện đầy đủ chức năng quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài trong phạm vi chức năng và thẩm quyền trong suốt quá trình nhà đầu tư triển khai dự án và sau khi dự án đi vào sản xuất, kinh doanh.
19. Phân cấp cấp Giấy phép đầu tư:
Nhằm tăng cường nguyên tắc tập trung dân chủ và sự đổi mới về phương thức hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước trong cơ chế thị trường, phát huy được tính chủ động, sáng tạo và ý thức tự chịu trách nhiệm, nâng cao hiệu lực quản lý và xử lý các vấn đề sát với thực tế của các địa phương ; góp phần đơn giản hóa các thủ tục hành chính và tạo thuận lợi trong việc hình thành và triển khai các dự án đầu tư. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định việc phân cấp cấp Giấy phép đầu tư cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có đủ điều kiện; quy định việc cấp Giấy phép đầu tư đối với các dự án đầu tư vào Khu công nghiệp, Khu chế xuất(Điều 55)
20. Bổ sung một số phương thức đầu tư BTO, BT:
Thực tiễn cho thấy để sớm có được các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ công cộng trong điều kiện thiếu vốn đầu tư, nhiều nước như Thái Lan, Philipin, Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Pakistan… ngoài phương thức BOT truyền thống, các nước này còn áp dụng các phương thức đầu tư tương tự như: xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO); xây dựng - chuyển giao (BT). Thực hiện theo các phương thức hợp đồng này ta sẽ sớm có các công trình cơ sở hạ tầng theo đúng quy hoạch và ta sẽ được bàn giao làm chủ việc vận hành các công trình này ngay sau khi chủ đầu tư nước ngoài xây dựng xong (BT). Để nhà đầu tư nước ngoài thu hồi được vốn và có một phần lợi nhuận thoả đáng, phía ta sẽ cho phép họ được phát triển một dự án khác theo đúng quy hoạch và với những điều kiện hai bên thoả thuận (BTO)
Trên có sở đa dạng hoá phưong thức đầu tư, nhằm mở rộng kênh thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt đối với công trình kết cấu hạ tầng, ngoài phưong thức đầu tư BOT đã được quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã quy định bổ sung thêm phương thức đầu tư Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) (Điều 19)
21. Vấn đề bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu hợp tác đầu tư với nước ngoài
Lĩnh vực khám chữa bệnh, dạy học và nghiên cứu khoa học công nghệ là một kết cấu xã hội rất quan trọng, rất cần có sự quan tâm đầu tư nhằm hiện đại hoá, bởi cơ sở vật chất của những đơn vị này của ta hiện nay rất lạc hậu, xuống cấp. Một phần vì các đơn vị này không phảI là các doanh nghiệp nên chủ yếu tồn tại và phát triển bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Nên việc cho phép bệnh viện, trường học và viện nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ được liên doanh với các đối tác nước ngoài để thu hút vốn, công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại để có điều kiện phát triển, đáp ứng yêu cầu của xã hội là rất cần thiết. Do đó Điều 65 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã quy định cơ chế giao cho Chính phủ quy định việc bệnh viện; trường dạy nghề; trường học và viện nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ, khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên hợp tác đầu tư với nước ngoài.
22. Bảo đảm cân đối ngoại tệ :
Chủ trương của ta là kêu gọi đầu tư vào các lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là đầu tư vào các công trình hạ tầng, sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu và các công trình quan trọng khác, đối với những dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực trên đều được hưởng những ưu đãi về tài chính, điều này chưa đủ, bởi lẽ các dự án nêu trên đều tiêu thụ tại thị trường Việt nam, doanh thu chủ yếu bằng đồng Việt nam, nếu nhà nước Việt nam không có sự bảo đảm chuyển đổi ra ngoại tệ cho các dự án loại này thì sẽ không có nhà đầu tư nào đầu tư vào các dự án nêu trên. Vì vậy, Điều 30 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định Chính phủ Việt Nam bảo đảm hỗ trợ cân đối ngoại tệ đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu và một số công trình quan trọng khác.
23. Mở tài khoản ở nước ngoài:
Nhiều trường hợp điều kiện của bên cho vay là bên vay phải mở tài khoản vốn vay tại ngân hàng do bên cho vay chỉ định, mà thường là các ngân hàng ở nước ngoại. Điều này đã phần nào hạn chế và cản trở việc vay vốn của các dự án đầu tư nước ngoài. Do đó, để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép mở tài khoản vốn vay tại Ngân hàng ở nước ngoài trong trường hợp đặc biệt được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận (Điều35)
Tóm lại, So với Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, thì Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 vẫn giữ 6 Chương; có 28 Điều được sửa đổi, bổ sung ở các mức độ khác nhau và bổ sung thêm 22 Điều mới. Với những nội dung sửa đổi nêu trên, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã đáp ứng được những mục tiêu: Khuyến khích, thông thoáng hơn ; Hạn chế sơ hở, chặt chẽ hơn; Tăng cường sự quản lý Nhà nước. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã kế thừa và phát triển Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 và các Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài vào các năm 1990, 1992. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 cùng hệ thống các văn bản luật khác đã tạo dựng khung pháp lý về đầu tư nước ngoài hoàn chỉnh hơn.
Tuy nhiên, sau khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, tuy đầu tư nước ngoài có những đóng góp tích cực vào sự phát triển của kinh tế đất nước, nhưng những năm sau đó, nhịp độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam liên tục suy giảm do hạn chế của môi trường đầu tư trong điều kiện mới và tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực.
Chẳng hạn, so với cùng kỳ năm 1996, nhịp tăng vốn đăng ký của các dự án đầu tư nước ngoài năm 1997 giảm 49%, năm 1998 giảm 16%, năm 1999 giảm 60%. Nhịp tăng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện năm 1997 tăng 25%, nhưng năm 1998 đã giảm 40%, năm 1999 giảm tiếp 22%. Nhiều dự án đầu tư nước ngoài đã cấp Giấy phép phải hoãn hoặc giãn tiến độ triển khai; nhiều dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, hiệu quả thấp. Việc suy giảm đầu tư nước ngoài đã ảnh hưởng lớn đến vốn đầu tư, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta .
Nguyên nhân của tình hình trên là do dung lượng thị trường nước ta nhỏ, sức mua thấp; một số lĩnh vực đầu tư đã bão hoà; cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém; cải cách hành chính tiến triển chậm; công tác cán bộ và trình độ lao động chưa đáp ứng được yêu cầu..; nhưng quan trọng là môi trường pháp lý lại bắt đầu nảy sinh hạn chế, chứa đựng những rủi ro gây khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Những hạn chế đó là:
- Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không những phải tuân thủ Luật Đầu tư nước ngoài mà còn chịu sự điều chỉnh của các pháp luật có liên quan. Những năm qua, khung pháp lý về kinh tế nói chung, về doanh nghiệp nói riêng không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Nhiều đạo luật mới đã được ban hành như Luật thương mại, Luật ngân hàng, Luật về các tổ chức tín dụng, Luật thuế xuất nhập khẩu, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Doanh nghiệp....một mặt, tạo ra môi trường pháp lý theo hướng từng bước thu hẹp sự cách biệt, tiến tới hình thành khung pháp lý chung cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài; mặt khác cũng phát sinh một số quy định chồng chéo, không thống nhất như về thuế thu nhập cao, thuế giá trị gia tăng, về đất đai, ngoại hối, lao động... làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gặp nhiều khó khăn, thậm chí làm đảo lộn phương án kinh doanh và gây thiệt hại cho Nhà đầu tư.
- Trước đòi hỏi mới của tình hình, bản thân Luật Đầu tư nước ngoài đã bộc lộ những hạn chế như : chưa đa dạng hoá thêm các hình thức đầu tư và tranh thủ nhiều hơn các đối tác có tiềm năng về vốn và công nghệ; chưa thiết kế rõ ràng cơ chế cho phép chuyển đổi hình thức đầu tư, chế tài xử lý tranh chấp, phá sản; cơ cấu tổ chức và cơ chế điều hành doanh nghiệp liên doanh có nhiều bất cập; thủ tục hành chính còn phức tạp, rườm rà và can thiệp nhiều vào hoạt động bình thường của doanh nghiệp...
Tình hình trên cùng với việc ban hành chậm và thiếu cụ thể nhiều văn bản pháp quy liên quan đến đầu tư nước ngoài đã tạo nên sự thiếu nhất quán, thậm chí tùy tiện trong giải thích và thi hành luật, ảnh hưởng đến tính trong sáng, rõ ràng và hiệu lực của pháp luật.
IV. LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM NĂM 2000
Ngày 9/6/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoàI sửa đổi năm 2000), đã bổ sung 2 điều mới và sửa đổi, bổ sung 20 điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996. Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 đã đưa ra nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn, giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể nói, các quy định của Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 đã tạo điều kiện xích gần hơn giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo thế chủ động trong tiến trình hội nhập và đảm bảo các cam kết quốc tế, làm cho môi trường kinh doanh của Việt Nam hấp dẫn, thông thoáng hơn so với trước đây và so với một số nước trong khu vực.
Những nội dung của Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 tập trung vào 3 nhóm vấn đề với 14 nội dung chủ yếu sau đây:
1. Nhóm vấn đề thứ nhất: Tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1.1. Về cân đối ngoại tệ và mở tài khoản (Điều 33,35):
Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được trực tiếp mua ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại để đáp ứng các giao dịch vãng lai và các giao dịch được phép khác. Đồng thời, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 khẳng định bảo đảm cân đối ngoại tệ, cho các được án đặc biệt quan trọng đầu tư theo chương trình của Chính phủ và bảo đảm việc hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng và một số dự án quan trọng khác.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp có phạm vi kinh doanh rộng cả ở trong và ngoài nước, Điều 35 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã được sửa đổi để cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mở tài khoản tại ngân hàng nước ngoài trong trường hợp đặc biệt được Ngân hàng Nhà nước Việt nam chấp thuận (thay vì trước đây chỉ cho phép mở tài khoản vốn vay).
1.2. Về việc thế chấp quyền sử dụng đất và đền bù, giải phóng mặt bằng (Điều 46):
Theo quy định mới của Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thế chấp tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất để bảo đảm vay vốn tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt nam, thay vì chỉ được phép thế chấp tại tổ chức tín dụng Việt nam như quy định trước đây.Quy định mới này là biện pháp quan trọng góp phần tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp cận nguồn vốn vay tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt nam, bao gồm cả tổ chức tín dụng nước ngoài.
Mặt khác, nhằm giảm chi phí liên quan đến việc sử dụng đất đai của nhà đầu tư, nâng cao trách nhiệm của Bên Việt nam ngay từ kh hình thành dự án đến khi triển khai thực hiện dự án, Điều 46 đã bổ sung quy định mới như sau: trường hợp góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, Bên Việt nam có trách nhiệm đền bù, giải phóng mặt bằng và hoàn thành các thủ tục để được quyền sử dụng đất; trường hợp Nhà nước Việt nam cho thuê đất thì Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh, nơi có dự án đầu tư tổ chức thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng và hoàn thành các thủ tục cho thuê đất.
1.3. Về nguyên tắc không hồi tố (Điều 21):
Trên cơ sở các biện pháp bảo đảm đầu tư đã được quy định tại Nghị định 12/CP[4] và Nghị định 10/1998/NĐ-CP[5], Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 đã quy định cụ thể các biện pháp đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư trong những trường hợp những thay đổi của pháp luật Việt nam làm thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu tư theo hướng:
- Cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh tiếp tục hưởng những ưu đãi đã quy định trong Giấy phép đầu tư và Luật Đầu tư nước ngoài hoặc áp dụng các biện pháp giải quyết như: (i) thay đổi mục tiêu dự án; (ii) miễn, giảm thuế trong khuôn khổ pháp luật; (iii) thiệt hại của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh trong trường hợp này được coi là khoản lỗ và được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế; (iv) xem xét bồi thường thoả đáng trong một số trường hợp.
- Những quy định mới ưu đãi hơn ban hành sau khi được cấp Giấy phép đầu tư sẽ được áp dụng cho doanh nghiệp có vốn có vốn đầu tư nước ngoài và các Bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh.
1.4. Về cam kết bảo đảm, bảo lãnh của Chính phủ và áp dụng Luật nước ngoài (Điều 66):
Theo quy định mới của Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000, căn cứ vào nguyên tắc quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài, Chính phủ có thể ký các thoả thuận với nhà đầu tư nước ngoài hoặc đưa ra những biện pháp bảo đảm, bảo lãnh về đầu tư.
Ngoài cam kết bảo đảm, bảo lãnh nói trên, để phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn pháp luật Việt nam, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 đã bổ sung quy định mới tại Điều 66 liên quan đến việc áp dụng pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài. Theo đó, hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt nam phải tuân thủ quy định tại Luật Đầu tư nước ngoài và quy định có liên quan của pháp luật Việt nam; trong trường hợp pháp luật Việt nam chưa có quy định, các bên có thể thoả thuận trong hợp đồng việc áp dụng pháp luật nước ngoài nếu việc áp dụng pháp luật nước ngoài không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt nam.
2. Nhóm vấn đề thứ hai: Mở rộng quyền tự chủ trong tổ chức quản lý, kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; xoá bỏ sự can thiệp không cần thiết của cơ quan Nhà nước vào hoạt động bình thường của doanh nghiệp.
2.1. Nguyên tắc nhất trí (Điều 14):
Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 đã thu hẹp phạm vi áp dụng nguyên tắc nhất trí trong tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp liên doanh quy định tại Điều 14 của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996. Theo đó, Hội đồng quản trị doanh nghiệp liên doanh chỉ quyết định theo nguyên tắc nhất trí đối với hai vấn đề: (i) sửa đổi, bổ sung điều lệ doanh nghiệp; và (ii) bổ nhiệm, miễn nhiệm tổng giám đốc, phó tổng giám đốc thứ nhất.
2.2. Về việc chuyển đổi hình thức đầu tư và tổ chức lại doanh nghiệp (Điều 19a).
Nhằm mở rộng quyền chủ động của nhà đầu tư trong việc lựa chọn hình thức đầu tư và tổ chức lại doanh nghiệp phù hợp với mục tiêu và tính chất hoạt động của dự án, Điều 19 của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã bổ sung quy định mới cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh chuyển đổi hình thức đầu tư, chia, tách, hợp nhất, sát nhập,.. theo các điều kiện và thủ tục do Chính phủ quy định.
Quy định nói trên không chỉ đáp ứng yêu cầu hoạt động đa dạng của dự án đầu tư nước ngoài mà còn tạo cơ sở pháp lý để Cơ quan cấp phép đầu tư xử lý vấn đề này một cách linh hoạt theo những nguyên tắc của Luật doanh nghiệp hiện hành và thông lệ quốc tế.
2.3. Quyền chuyển nhượng vốn (Điều 34).
Điều 34 của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã được sửa đổi nhằm đơn giản hoá thủ tục và loại bỏ quy định có tính chất áp đặt đối với việc chuyển nhượng vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên hợp doanh. Theo đó, cơ quan cấp phép đầu tư sẽ không xem xét, phê duyệt hợp đồng chuyển nhượng vốn, mà chỉ thực hiện cơ chế đăng ký.
2.4. Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Điều 52):
Khoản 2, Điều 52 của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã được sửa đổi theo hướng loại bỏ điều kiện chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Hợp đồng hợp tác kinh doanh có tính chất áp đặt, không bình đẳng giữa các bên (do đề nghị của một hoặc các bên và được cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài chấp thuận). Theo đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể chấm dứt hoạt động theo các điều kiện quy định trong Hợp đồng, Điều lệ doanh nghiệp hoặc theo thoả thuận giữa các Bên.
2.5. Thanh lý, phá sản doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Điều 53):
Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 đã bổ sung quy định mới phân định rõ trình tự giải thể thanh lý và trình tự phá sản doanh nghiệp theo hướng: trong quá trình thanh lý tài sản doanh nghiệp, nếu phát hiện doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì việc giải quyết phá sản của doanh nghiệp sẽ được thực hiện theo quy định trong pháp luật về phá sản.
Mặt khác, để xử lý vướng mắc đã tồn tại từ nhiều năm nay liên quan đến việc thanh lý giá trị quyền sử dụng đất do Bên Việt nam góp vốn vào doanh nghiệp liên doanh, Điều 53 đã bổ sung quy định: trong trường hợp Bên Việt nam tham gia doanh nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng giá trị quyền sử dụng đất mà doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản thì giá trị còn lại của quyền sử dụng đất đã góp thuộc tài sản thanh lý của doanh nghiệp.
2.6. Quy định về thành lập các quỹ của doanh nghiệp (Điều 41):
Để mở rộng quyền chủ động trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phù hợp với tinh thần của Luật doanh nghiệp hiện hành, Điều 41 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã được sửa đổi theo hướng xoá bỏ yêu cầu lập quỹ dự phòng với một tỷ lệ áp đặt để cho phép doanh nghiệp tự quyết đinh việc trích lợi nhuận còn lại để lập quỹ dự phòng, quỹ phúc lợi, quỹ mở rộng sản xuất.
2.7. Thủ tục đầu tư và quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài (các Điều 55, 59, 60, 63 và 64):
Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 tiếp tục cải tiến mạnh mẽ thủ tục đầu tư và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về đầu tư theo những hướng chủ yếu sau:
- Bổ sung vào Điều 55 quy định mới về chế độ đăng ký cấp Giấy phép đầu tư theo thủ tục đơn giản do Chính phủ quy định.
- Sửa đổi Điều 60 để rút ngắn thời hạn cấp Giấy phép đầu tư từ 60 ngày xuống 45 ngày đối với các dự án thuộc diện thẩm định cấp Giấy phép đầu tư và 30 ngày đối với dự án thuộc diện đăng ký cấp Giấy phép đầu tư.
- Bổ sung vào Điều 64 quy định mới nhằm xác định rõ mục tiêu và phạm vi của việc thanh tra, hạn chế tình trạng thanh tra tuỳ tiện gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, việc thanh tra phải đúng chức năng, đúng thẩm quyền, tuân thủ quy định của pháp luật; thanh tra tài chính không quá một lần trong năm và việc thanh tra bất thường chỉ được thực hiện khi có căn cứ về vi phạm pháp luật của doanh nghiệp.
3. Nhóm vần đề thứ ba: Bổ sung một số ưu đãi về thuế đối với dự án đầu tư nước ngoài nhằm tăng cường tính hấp dẫn và cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt nam; cụ thể là:
3.1. Về việc miễn, giảm thuế nhập khẩu (Điều 47):
Nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý của chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài, góp phần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đang hoạt động, Điều 47 đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng:
- Luật hoá quy định tại Nghị định 12/CP và Nghị định 10/1998/NĐ-CP về việc miễn thuế nhập khẩu đối với các thiết bị, máy móc, nguyên liệu, linh kiện, phương tiện vận tải…; vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được.
- Bổ sung ưu đãi mới về thuế nhập khẩu đối với các dự án thuộc lĩnh vực hoặc địa bàn khuyến khích đầu tư. theo đó, nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất của các dự án thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất.
3.2. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (Điều 43, 44):
Thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài quy định tại Điều 43 của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã được sửa đổi theo hướng giảm từ các mức 5%, 7%, 10% xuống các mức tương ứng là 3%, 5% và 7% tuỳ thuộc vào quy mô góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp.
Trên tinh thần đó, Điều 44 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 cũng được sửa đổi để cho phép người Việt nam định cư ở nước ngoài hưởng thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài ở mức thấp nhất là 3%, thay vì mức 5% như quy định trước đây.
3.3. Quy định về chuyển lỗ (Điều 40):
Quy định về việc chuyển lỗ tại Điều 40 đã được sửa đổi trên cơ sở mở rộng ưu đãi về vấn đề này của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và luật hoá quy định của Nghị định 10/1998/ NĐ-CP, theo đó, thay vì chỉ có doanh nghiệp liên doanh được chuyển lỗ như quy định trước đây, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, sau khi quyết toán thuế với cơ quan thuế mà bị lỗ cũng được chuyển lỗ sang năm sau và được khấu trừ khoản lỗ này vào thu nhập chịu thuế; thời gian chuyển lỗ không quá 5 năm.
Tóm lại : Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 đã đưa ra nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những vướng mắc khó khăn, giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên quan đến các cơ chế, chính sách về thuế, ngoại tệ, đất đai, thế chấp, xử lý tranh chấp, bảo đảm, bảo lãnh đối với các dự án quan trọng....
Nhằm thu hút đầu tư nước ngoài nhiều hơn với chất lượng cao hơn, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 cũng đã bổ sung thêm các biện pháp khuyến khích ưu đãi đầu tư hơn trước trên cơ sở luật hoá các văn bản dưới luật đã ban hành; làm cho môi trường kinh doanh của Việt Nam hấp dẫn thông thoáng hơn so với trước đây và so với một số nước trong khu vực.
Trên cơ sở sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến tổ chức hoạt động doanh nghiệp, thu hẹp nguyên tắc nhất trí; cho phép chuyển đổi, hợp nhất, sáp nhập, chia tách doanh nghiệp; xử lý các vướng mắc về thuế GTGT; đưa ra các nguyên tắc không hồi tố, áp dụng pháp luật nước ngoài, bảo đảm, bảo lãnh đầu tư..., Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 cũng đã tạo điều kiện xích gần hơn giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài và tạo thế chủ động trong tiến trình hội nhập và đảm bảo các cam kết quốc tế.
V. LUẬT LUẬT ĐẦU TƯ NĂM 2005
Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư, tạo 'một sân chơi' bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư và có hiệu lực từ 1/7/2006, Luật Đầu tư 2005 thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành NĐ 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Đầu tư (Nghị định 108).
Khác cơ bản với Luật Đầu tư nước ngoài trước đây, Luật Đầu tư năm 2005 được thiết kế theo hướng chỉ quy định các nội dung liên quan đến hoạt động đầu tư, còn các nội dung liên quan đến cơ cấu tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp thì chuyển sang Luật Doanh nghiệp điều chỉnh, các mức ưu đãi về thuế chuyển sang quy định tại các văn bản pháp luật về thuế và các nội dung mang tính chất đặc thù thì dẫn chiếu sang pháp luật chuyên nghành điều chỉnh.
Dưới đây xin nêu một số nội dung cơ bản của Luật Đầu tư và Nghị định 108, cụ thể như sau:
1. Về những quy định chung
Về việc áp dụng pháp luật, pháp luật đầu tư 2005 quy định trường hợp pháp luật Việt Nam được ban hành sau khi Việt Nam là thành viên của các điều ước quốc tế có quy định thuận lợi hơn so với điều ước quốc tế thì nhà đầu tư có quyền lựa chọn việc áp dụng theo điều ước quốc tế hoặc pháp luật Việt Nam.
Về ngôn ngữ sử dụng, pháp luật đầu tư 2005 quy định hồ sơ dự án đầu tư và các văn bản chính thức gửi các cơ quan nhà nước Việt Nam làm bằng tiếng việt; đối với hồ sơ dự án có vốn đầu tư nước ngoài thì hồ sơ và các văn bản trên làm bằng tiếng Việt hoặc tiếng Việt và tiếng nước ngoài thông dụng. Trong trường hợp có sự khác nhau giữa văn bản tiếng Việt và tiếng nước ngoài thì bản tiếng Việt được áp dụng.
Ngoài ra, nhằm bảo đảm khả năng bao quát, không chồng lấn với các luật chuyên ngành, pháp luật đầu tư 2005 quy định hoạt động đầu tư đặc thù được quy định trong pháp luật chuyên ngành thì áp dụng theo quy định của pháp luật chuyên ngành đó. Quy định như vậy nhằm bảo đảm thực tế có một số luật chuyên ngành quy định về chứng khoán, bảo hiểm, ngân hàng, tài chính đã và đang được thực hiện theo pháp luật chuyên ngành.
Về giải thích từ ngữ: Nghị định 108 đã bổ sung các thuật ngữ “dự án đầu tư mới”, “dự án đầu tư mở rộng” để nhà đầu tư biết rõ trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư của mình mà có liên quan đến ưu đãi đầu tư.
2. Về hình thức đầu tư
So với Luật Đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước trước đây thì pháp luật đầu tư 2005 quy định rõ hơn về những hình thức đầu tư như: Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài; Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT; Đầu tư phát triển kinh doanh; Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; và Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. Nhà đầu tư được đầu tư để thành lập tổ chức kinh tế bằng 100% vốn của mình, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam được hợp tác với nhau và/hoặc với nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài mới theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Nhà đầu tư cũng có thể đầu tư thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh trên được tiếp tục liên doanh với nhà đầu trong nước và nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập tổ chức kinh tế mới theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.
Đối với hoạt động đầu tư thành lập tổ chức kinh tế để thực hiện dự án đầu tư, pháp luật đầu tư 2005 quy địnhnhà đầu tư trong nước có dự án đầu tư gắn với việc thành lập tổ chức kinh tế thì thực hiện việc đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp, pháp luật có liên quan và thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và Nghị định 108. Quy định như trên nhằm bảo đảm sự thuận lợi cho hoạt động đầu tư trong nước.
Bên cạnh đó, pháp luật đầu tư 2005 còn có quy định nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và thực hiện thủ tục đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư; Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Một điểm khác so với quy định trước đây, được coi là một điểm mở rất thoáng và mới đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, đó là đối với nhà đầu tư nước ngoài đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư tại Việt Nam, nếu nhà đầu tư có dự án đầu tư mới mà không thành lập pháp nhân mới thì chỉ thực hiện thủ tục đầu tư để cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật đầu tư 2005; nếu nhà đầu tư có dự án đầu tư mới gắn với việc thành lập pháp nhân mới thì thực hiện thủ tục thành lập tổ chức kinh tế và thủ tục đầu tư theo quy định như đối với đầu tư trong nước.
Ngoài ra, để bảo đảm tính linh hoạt của hoạt động đầu tư của nhà đầu tư, Nghị định có quy định về chuyển đổi hình thức đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình hoạt động của mình được tự do chuyển đổi giữa các hình thức đầu tư để phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh mà không bị cấm hoặc hạn chế.
3. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư
Pháp luật đầu tư 2005 đã cụ thể hóa những nội dung về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, theo đó nhà đầu tư có quyền tự chủ đầu tư kinh doanh, quyền tiếp cận các nguồn lực đầu tư, sử dụng nguồn vốn tín dụng, đất đai và tài nguyên, quyền sử dụng lao động, quyền mở tài khoản và mua ngoại tệ, quyền xuất khẩu, nhập khẩu, quảng cáo, gia công, gia công lại,...
4. Lĩnh vực, địa bàn ưu đãi và hỗ trợ đầu tư
* Lĩnh vực ưu đãi và địa bàn ưu đãi đầu tư, pháp luật đầu tư 2005 được xây dựng căn cứ vào các mục tiêu, tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhằm thu hút đầu tư tạo nên đòn bẩy kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong lĩnh vực và địa bàn mà nhà nước ưu đãi.
- Lĩnh vực đầu tư ưu đãi tập trung các ngành sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ tin học, công nghệ thông tin; phát triển nuôi trồng, chế biến nông lâm, hải sản, bảo vệ môi trường; nghiên cứu phát triển và ươm tạo công nghệ cao, đầu tư vào nghiên cứu phát triển, sử dụng nhiều lao động và phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp .v.v..
- Địa bàn ưu đãi đầu tư được thiết kế áp dụng cho các địa phương dựa trên các tiêu chí về thu nhập kinh tế quốc dân, về tỷ lệ đói nghèo, về cơ sở hạ tầng, về mức độ tăng trưởng công nghiệp, về chính sách phát triển vùng và hài hòa các vùng.
* Về áp dụng ưu đãi đầu tư, pháp luật đầu tư quy định nhà đầu tư đã được hưởng ưu đãi theo quy định củaLuật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Hợp tác xã và các luật thuế được tiếp tục hưởng các ưu đãi đầu tư theo Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư hoặc Giấy phép đầu tư đã cấp. Đối với dự án đầu tư thực hiện trước ngày Luật Đầu tư có hiệu lực thuộc đối tượng ưu đãi đầu tư quy định tại Nghị định 108 thì nhà đầu tư được hưởng ưu đãi đầu tư cho thời gian ưu đãi còn lại kể từ ngày Nghị định 108 có hiệu lực.
Các ưu đãi đầu tư được ghi vào Giấy chứng nhận đầu tư nhằm bảo đảm cho nhà đầu tư yên tâm khi thực thực hiện hoạt động đầu tư của mình. Đông thời, để bảo đảm nhà đầu tư yên tâm trong hoạt động đầu tư, pháp luật đầu tưcó quy định trường hợp pháp luật, chính sách mới được ban hành có các quyền lợi và ưu đãi cao hơn so với quyền lợi ưu đãi mà nhà đầu tư đã được hưởng trước đó thì nhà đầu tư được hưởng các quyền lợi, ưu đãi cho thời gian ưu đãi còn lại (nếu có) kể từ ngày pháp luật, chính sách mới đó có hiệu lực. Ngoài ra, để bám sát các vấn đề thực tế đã phát sinh trong ưu đãi đầu tư, pháp luật đầu tư có quy định về điều chỉnh, bổ sung ưu đãi đầu tư.
* Về hỗ trợ đầu tư: các hỗ trợ đầu tư về chuyển giao công nghệ, đào tạo, tư vấn đầu tư, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất được tiếp tục cụ thể hóa hơn trong pháp luật đầu tư 2005.
* Lĩnh vực đầu tư có điều kiện quy định trong Luật Đầu tư và Nghị định 108 là các điều kiện gia nhập thị trường mà nhà đầu tư phải đáp ứng, không bao gồm các điều kiện hoạt động mà nhà đầu tư phải bảo đảm trong quá trình hoạt động kinh doanh. Các lĩnh vực đầu tư có điều kiện này phải tuân thủ các quy định về lĩnh vực đầu tư có điều kiện quy định tại Điều 29 của Luật Đầu tư và các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật có liên quan; chủ yếu là lĩnh vực đầu tư có tác động đến trật tự an toàn xã hội, an toàn tài chính, một số lĩnh vực dịch vụ đặc thù liên quan đến mở cửa thị trường và các lĩnh vực có tác động rộng rãi đến cộng đồng. Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư, địa bàn ưu đãi đầu tư là cơ sở chung, thống nhất cho việc áp dụng các chính sách ưu đãi đầu tư.
- Lĩnh vực cấm đầu tư trong dự thảo được quy định cụ thể hơn so với quy định trong Luật Đầu tư về dự án gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia và lợi ích công cộng, về dự án gây phương hại đến di tích lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục của Việt Nam, dự án gây tổn hại đến sức khỏe nhân dân, làm hủy hoại tài nguyên, phá hủy môi trường và các dự án xử lý phế thải độc hại đưa từ bên ngoài vào Việt Nam; sản xuất các loại hóa chất độc hại hoặc sử dụng tác nhân độc hại bị cấm theo điều ước quốc tế.
5. Về thủ tục đầu tư trực tiếp
Điểm mới của pháp luật đầu tư năm 2005 là chủ trương phân cấp mạnh cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Ban quản lý Khu Công nghiệp, Khu chế xuất, Khu Công nghệ cao và Khu kinh tế (sau đây gọi là Ban quản lý) cấp Giấy Chứng nhận đầu tư cũng như quản lý hoạt động đầu tư và giảm bớt những dự án phải trình Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ chỉ chấp thuận về nguyên tắc đối với một số dự án quan trọng chưa có trong quy hoạch hoặc chưa có quy hoạch. Những dự án đã có trong quy hoạch được duyệt và đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Ban quản lý cấp Giấy chứng nhận đầu tư mà không phải trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư. Các dự án còn lại sẽ do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Ban quản lý tự quyết định và cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Đối với các dự án đầu tư không nằm trong quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hoặc ủy quyền phê duyệt hoặc dự án không đáp ứng điều kiện mở cửa thị trường quy định tại điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, thì cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư chủ trì, lấy ý kiến Bộ quản lý ngành, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc điều chỉnh, bổ sung quy hoạch hoặc quyết định mở cửa thị trường. Đối với dự án đầu tư thuộc lĩnh vực chưa có quy hoạch, thì cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư lấy ý kiến của các cơ quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư.
Việc phân cấp cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Ban quản lý là một chủ trương thực hiện cải cách hành chính trong quản lý kinh tế và đã được đúc rút, tổng kết trong nhiều năm qua. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Ban quản lý là cơ quan quản lý trực tiếp các nguồn lực đầu tư về đất đai, lao động, môi trường, quy hoạch và nắm sát nhất điều kiện, tình hình thực hiện các dự án đầu trên địa bàn. Việc phân cấp mạnh cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Ban quản lý còn nhằm tiến tới xóa bỏ cơ quan chủ quản, tạo điều kiện cho các bộ, ngành quản lý nhà nước tập trung thực hiện chức năng hoạch định chính sách, dự báo, kiểm tra, giám sát.
Về thủ tục đăng ký và thẩm tra đối với dự án đầu tư pháp luật đầu tư cũng quy định đơn giản hơn nhiều và trách nhiệm thẩm tra của các bộ, ngành liên quan đến dự án đầu tư cũng được quy định cụ thể hơn so với trước đây; điều đó tạo thuận lợi cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Ban quản lý trong việc xem xét cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Đối với việc điều chỉnh dự án đầu tư, pháp luật đầu tư quy định khi điều chỉnh dự án đầu tư liên quan đến mục tiêu, quy mô, địa điểm, hình thức, vốn và thời hạn thực hiện dự án đầu tư, nhà đầu tư phải làm thủ tục tại cơ quan tiếp nhận hồ sơ để làm thủ tục điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư. Việc điều chỉnh dự án đầu tư được thực hiện theo một trong các quy trình: (1) không phải làm thủ tục đăng ký điều chỉnh hoặc thẩm tra điều chỉnh dự án đầu tư (2) Đăng ký điều chỉnh dự án đầu tư; (3) Thẩm tra điều chỉnh dự án đầu tư.
6. Đầu tư kinh doanh vốn nhà nước
Nhằm cụ thể hoá các quy định về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước (Chương VII của Luật Đầu tư) dự thảo có quy định một số các nguyên tắc về thủ tục sử dụng vốn nhà nước để đầu tư kinh doanh (vốn ngân sách nhà nước; vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước; vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh; vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước). Nội dung của các điều khoản này chỉ đề cập đến giai đoạn quyết định bỏ vốn của nhà nước để đầu tư kinh doanh. Sau khi quyết định bỏ vốn đầu tư kinh doanh, các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động đầu tư theo các quy định của Luật Đầu tư và pháp luật có liên quan.
7. Về triển khai thực hiện dự án đầu tư
Về triển khai thực hiện dự án đầu tư, Luật Đầu tư và Nghị định 108 đã quy định rõ mối quan hệ giữa hoạt động đầu tư và hoạt động xây dựng; về thuê quản lý; chuyển nhượng vốn và chuyển nhượng dự án; điều chỉnh dự án đầu tư...
8. Về quản lý nhà nước về đầu tư
Pháp luật đầu tư 2005 quy định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan quản lý nhà nước , trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong quản lý hoạt động đầu tư. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là một đơn vị hành chính của trung ương tại địa phương, Uỷ ban nhân dân sẽ thực hiện chức năng quản lý toàn diện về phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, trong đó có cấp Giấy chứng nhận đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư trên địa bàn.
9. Một số nội dung khác
Để bảo đảm các hoạt động đầu tư không bị xáo trộn pháp luật đầu tư 2005 quy định về nguyên tắc đăng ký lại đối với các dự án đầu tư trong nước và dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Quy định việc phải thực hiện ký quỹ hoặc bảo hiểm khách hàng khi triển khai thực hiện dự án đối với một số dự án có tác động đến lợi ích của cộng đồng như giáo dục, đào tạo, y tế .
Ngoài ra, một điểm mới quan trọng của pháp luật đầu tư 2005 đó là Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi trong Nghị định 108 sẽ bãi bỏ và thay thế các danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi được quy định trong các văn bản pháp luật khác như:
- Danh mục ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp của: Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 quy định chi tiết Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Nghị định 152/2004/NĐ-CP ngày 06/08/2004 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 quy định chi tiết Luật thuế thu nhập doanh nghiệp);
- Danh mục ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ban hành kem theo Nghị định 149/2005/NĐ-CP ngày 06/12/2005 quy định chi tiết thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
KẾT LUẬN
Trong khoảng 20 năm qua, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước, tạo thêm thế và lực cho Việt Nam chủ động hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Trong những thành tựu to lớn của đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng của Luật Đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở khu vực và trên thế giới, Luật Đầu tư nước ngoài đã thực sự trở thành “đòn bẩy” quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Nghiên cứu toàn bộ lịch sử của sự hình thành và phát triển của pháp Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cho thấy, từ năm 1977 cho đến nay, pháp Luật Đầu tư nước ngoài đã luôn luôn được hoàn thiện, tạo dựng một khung pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài, trên cơ sở quán triệt quan điểm mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Những đóng góp của đầu tư nước ngoài vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước là một minh chứng khẳng định vai trò tích cực của pháp luật đầu tư nước ngoài.