Các dự án của Nhật
Bản được triển khai trên 19 ngành, lĩnh vực, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực Nhật
Bản có thế mạnh và đang tăng cường tìm kiếm cơ hội đầu tư ra nước ngoài như:
công nghiệp chế biến, chế tạo với 1,541dự án, tổng vốn đầu tư 33,54tỷ USD (chiếm 48.41% tổng số dự án và 80.02%
tổng vốn đầu tư); kinh doanh bất động sản với 53 dự án, tổng vốn đầu tư 1,91 tỷ
USD; sản xuất, phân phối điện, khí, nước với 15 dự án, tổng vốn đầu tư 1,28 tỷ
USD,...
Các dự án của Nhật
Bản tại Việt Nam chủ yếu theo hình thức 100% vốn nước ngoài với 2.678 dự án, tổng
vốn đầu tư 24,17tỷ USD (chiếm 82.8% tổng
số dự án và 57.5% tổng vốn đầu tư). Đứng thứ hai là hình thức liên doanh với 540 dự án, tổng vốn đầu tư 16,16 tỷ USD. Còn lại
là các dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, BT, BTO và hình thức hợp đồng
hợp tác kinh doanh.
Các nhà đầu tư Nhật
Bản đã đầu tư vào 52 tỉnh và địa phương trong cả nước. Trong đó, Thanh Hóa thu
hút nhiều vốn đầu tư từ Nhật Bản nhất với 13 dự án có tổng vốn đầu tư 9,7 tỷ
USD. Đứng thứ hai là Hà Nội với 856 dự án và tổng vốn đầu tư 5,02 tỷ USD. Tiếp
theo là các địa phương Bình Dương, Tp Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đồng Nai, Hưng
Yên...
Trong thời gian tới, để thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam-Nhật Bản,
chúng ta cần thực hiện một số giải pháp như:
Tiếp tục phối hợp
triển khai tốt Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản .
Tiếp tục đẩy mạnh hợp
tác triển khai đầu tư vào các nghành lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao và Kế
hoạch hành động thực hiện chiến lược Công nghiệp hóa đến năm 2020 tầm nhìn 2030
trong khuôn khổ hợp tác với Nhật Bản; tập trung vào 6 ngành: điện tử,
máy nông nghiệp, chế
biến nông, thủy sản,
đóng tàu, môi
trường và tiết kiệm năng lượng, xản xuất ô tô và phụ
tùng ô tô.
Đẩy mạnh hình thức
XTĐT tại chỗ (hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đã được cấp
phép đầu tư triển khai việc kinh doanh thuận lợi và có hiệu quả),
theo tinh thần của Nghị quyết 103/NQ-CP ngày 29/8/2013 về Định hướng nâng cao
hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý FDI trong thời gian tới.
Tăng cường hơn
nữa các hoạt động xúc tiến đầu tư với Nhật Bản dưới nhiều hình thức:
như (i) thành lập các bộ phận hỗ trợ chuyên biệt cho các nhà đầu tư Nhật Bản
nói chung (giống như Japan Desk tại Cục ĐTNN – Bộ KHĐT) và nhà đầu tư của một số
tỉnh của Nhật Bản nói riêng (ví dụ: các tỉnh Aichi, Saitama và Kansai tại Cục
ĐTNN – Bộ KHĐT);(ii) xây dựng tài
liệu và trang web XTĐT bằng tiếng Nhật v.v.; (iii) đẩy mạnh hợp tác với các
Liên đoàn kinh tế (VD:
keidanren, kankeiren, chukeiren...), Hiệp hội doanh nghiệp (VD: Phòng TMDN Nhật
JCCI...),Ngân hàng, công ty
tư vấn, quỹ đầu tư của Nhật Bản. Đây là các kênh quan trọng giúp ta tiếp cận được với cộng
đồng các doanh nghiệp Nhật Bản là thành viên/khách hàng của các tổ chức này,
sàng lọc được đúng đối tượng doanh nghiệp ta cần tiếp cận và truyền tải thông
tin về chính sách, chủ trương của Chính phủ một cách kịp thời nhất tới các
doanh nghiệp Nhật Bản; (iv) đẩy mạnh kết nối các địa phương của Việt Nam với
các địa phương của Nhật Bản có thế mạnh có thể bổ sung cho nhau để cùng thúc đẩy
hợp tác đầu tư từ doanh nghiệp của hai bên.
Bên cạnh XTĐT các Tập
đoàn lớn, chú trọng XTĐT đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) của
Nhật nhất là các doanh nghiệp trong
lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và nông nghiệp. Các doanh nghiệp SME (4,7 triệu doanh nghiệp) chiếm 99,7% tổng số doanh
nghiệp tại Nhật, có công nghệ kỹ thuật hiện đại và đang có xu hướng đầu tư
ra nước ngoài.
Khuyến khích các
nhà đầu tư của Nhật Bản đầu tư vào lĩnh vực giáo dục nhằm đào tạo đội ngũ lao động
có khả năng ngoại ngữ và chuyên môn phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp Nhật
Bản tại Việt Nam./.