I. VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM
1. Tình hình thu hút ĐTNN
4 tháng đầu năm 2022
1.1. Tình hình hoạt động
Vốn thực hiện:
Tính tới 20/04/2022, ước tính các dự án đầu
tư nước ngoài đã giải ngân được 5,92 tỷ USD, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2021.
Tình hình xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu: Kim
ngạch xuất khẩu của khu
vực ĐTNN tiếp tục tăng trong 4 tháng đầu
năm 2022. Xuất khẩu (kể cả dầu thô) ước đạt gần 91,14 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng
kỳ, chiếm 74%
kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt trên 90,36 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng
kỳ, chiếm 73,4% kim
ngạch xuất khẩu cả nước.
Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực
ĐTNN ước đạt gần 80,39 tỷ USD, tăng 18,7% so cùng kỳ và chiếm 65,8% kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Tính
chung trong 4 tháng đầu năm 2022, khu vực ĐTNN xuất siêu 10,75 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu gần
10 tỷ
USD không kể dầu thô. Trong khi
đó, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu trên 9,79 tỷ USD.
1.2. Tình hình đăng ký đầu tư
Tính đến 20/04/2022, tổng vốn
đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt trên
10,8 tỷ USD,
bằng 88,3% so với cùng kỳ năm 2021. Tuy vốn đầu tư đăng ký mới tiếp tục giảm,
nhưng cả vốn đầu tư điều chỉnh và GVMCP đều tăng mạnh so với cùng kỳ. Cụ thể:
Vốn đăng ký mới: Có 454
dự án mới
được cấp GCNĐKĐT (tăng 0,7%
so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký đạt gần 3,7 tỷ USD (giảm 56,3% so với cùng
kỳ).
Vốn điều chỉnh: Có 323 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (tăng 22,8%
so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt gần 5,29 tỷ USD (tăng 92,5% so với cùng kỳ).
Góp vốn, mua cổ phần: Có 1.026 lượt GVMCP của nhà ĐTNN (bằng 89,1%
so với cùng kỳ), tổng giá trị vốn góp đạt trên gần 1,83 tỷ USD (tăng 74,5 so
với cùng kỳ).
Cơ cấu ĐTNN 4 tháng đầu năm 2022 theo
thành phần vốn đầu tư
Theo ngành:
Các nhà đầu tư nước
ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt gần 6,2 tỷ USD, chiếm 57,2% tổng vốn đầu tư đăng ký. Ngành kinh doanh bất động sản đứng thứ 2
với tổng vốn đầu tư trên 2,8 tỷ USD, chiếm 26,1% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo
lần lượt là các ngành bán
buôn, bán lẻ; hoạt động chuyên môn khoa học công nghệ với tổng vốn đăng ký đạt lần lượt là gần 667,8 triệu USD và gần 357,5 triệu USD. Còn lại là các ngành khác.
Nếu xét về số lượng dự án mới thì bán buôn bán lẻ, công
nghiệp chế biến chế tạo và hoạt động chuyên môn khoa học công nghệ là các ngành
thu hút được nhiều dự án nhất, chiếm lần lượt 28,6%, 25,8% và 18,1% tổng số dự
án.
Cơ cấu ĐTNN 4 tháng đầu năm
2022 theo ngành
Theo đối tác
đầu tư:
Đã có 72 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư
tại Việt Nam trong 4 tháng
đầu năm 2022. Trong
đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư trên 3,1 tỷ USD, chiếm 28,8% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, giảm 35,8% so với cùng kỳ 2021; Hàn Quốc đứng thứ hai với trên 1,82 tỷ USD, chiếm 16,9% tổng vốn đầu tư, tăng 53,9% so với cùng kỳ. Với dự án Lego có quy mô lớn, tổng vốn đầu
tư trên 1,3 tỷ USD, Đan Mạch tiếp tục đứng thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký
gần trên 1,32 tỷ USD, chiếm 12,2% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan.
Theo số lượng dự án, Hàn Quốc vẫn là đối tác có nhiều nhà
đầu tư quan tâm và đưa ra các quyết định đầu tư mới cũng như mở rộng dự án đầu
tư và GVMCP nhất trong 4 tháng năm 2022 (chiếm
18,7% số dự án mới, 33,7% số lượt điều chỉnh và 37,3% số lượt GVMCP).
Theo địa bàn đầu tư:
Các nhà ĐTNN đã đầu
tư vào 44 tỉnh, thành
phố trên cả nước trong 4
tháng đầu năm 2022.
Bình Dương dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăg ký gần 2,35 tỷ USD, chiếm 21,7% tổng vốn đầu tư đăng ký và gấp hơn 4,9 lần so với cùng kỳ năm 2021.
Bắc Ninh đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư gần 1,57 tỷ USD, chiếm 14,5% tổng vốn.
TP Hồ Chí Minh vượt lên xếp thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 1,28 tỷ USD,
chiếm 11,8% tổng vốn và tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2021. Tiếp theo lần
lượt là Thái Nguyên, Hà Nội, Hải Phòng,…
Nếu xét về số dự án mới, các nhà ĐTNN
vẫn tập trung đầu tư nhiều tại các thành phố lớn, có cơ sở hạ tầng thuận lợi
như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trong đó, TP Hồ Chí Minh dẫn đầu về số dự án mới (39,9%),
số lượt GVMCP (70,4%) và đứng thứ hai về số lượt dự án điều chỉnh vốn (13,6%,
sau Hà Nội là 16,1%).
ĐTNN 4 tháng đầu năm 2022 theo địa bàn
đầu tư
2. Nhận xét về tình
hình đầu tư nước ngoài trong 4 tháng đầu năm 2022.
-
Vốn đầu tư thực hiện của các dự án ĐTNN
trong 4 tháng đầu năm 2022 tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2021. Với sự trợ
giúp liên tục và hiệu quả của Chính phủ và các cơ quan chức năng, cùng với nỗ
lực của cộng đồng doanh nghiệp vượt qua đại dịch và thích ứng với tình hình
mới, các doanh nghiệp tiếp tục phục hồi, duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh.
- Điều chỉnh
vốn và góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà ĐTNN đều tăng so với cùng
kỳ cả về số lượng và vốn đầu tư. Nhiều
dự án sản xuất, chế tạo các sản phẩm điện tử, công nghệ cao được mở rộng vốn
với quy mô lớn trong 4
tháng đầu năm.
- Vốn đầu tư
đăng ký mới giảm khá mạnh, tiếp tục làm giảm tổng vốn đầu tư trong 4 tháng
(giảm 11,7%), song số lượng dự án đầu tư mới trong cả 4 tháng đầu năm vẫn
tăng nhẹ (0,7%). Dù có những tác động
bất lợi từ đại dịch Covid-19, các nhà ĐTNN vẫn đặt niềm tin vào nền kinh tế,
vào môi trường đầu tư của Việt Nam và đưa ra các quyết định đầu tư mới cũng như
mở rộng đầu tư hiện hữu.
- Tổng vốn đầu
tư trong tháng 4 năm 2022 giảm so với các tháng đầu năm 2022 do
không có nhiều các dự án quy mô vốn lớn như các tháng cùng kỳ 2021. Tuy nhiên
ngoài số lượng dự án mới, số lượt GVMCP giảm nhẹ so với tháng 3/2022 thì đều
tăng hơn so với các tháng 1 và 2 năm 2022.
Riêng số lượt dự án điều chỉnh vốn vẫn đang có xu hướng tăng đều trong các
tháng đầu năm. Với
việc mở cửa các đường bay quốc tế từ ngày 15/3 sẽ tác động tích cực đến dòng
vốn đầu tư trong thời gian tới.
- Xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng trong 4 tháng đầu
năm và tăng mạnh hơn 3 tháng. Khu vực ĐTNN xuất siêu 10,75 tỷ USD kể cả dầu thô, góp phần bù đắp phần nhập siêu trên 9,79 tỷ USD của khu vực doanh nghiệp
trong nước, do đó cả nước xuất siêu khoảng 960 triệu USD trong 4 tháng đầu năm.
- Cuộc xung
đột Nga – Ucraina không có tác động trực tiếp đáng kể đối với ĐTNN tại Việt Nam do đầu
tư của Nga và Ucraina chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư vào Việt Nam
(chiếm 0,23% tổng vốn đầu tư). Tuy
nhiên, về trung và dài hạn, cuộc xung đột có thể dẫn đến xu hướng chuyển dịch đầu
tư ra khỏi
Nga và Ucraina sang các nước Châu Á. Trong đó Việt Nam cũng có thể được hưởng
lợi từ dòng vốn đầu tư dịch chuyển này. Tuy nhiên, hiện nay xu hướng này vẫn
chưa rõ ràng.
3. Tình hình
ĐTNN luỹ kế tới 20/04/2022
Tính lũy kế đến ngày 20/04/2022, cả nước có 34.891 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký trên 424,59 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy
kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 257,52 tỷ USD, bằng 60,7% tổng vốn đầu tư đăng ký
còn hiệu lực.
- Theo ngành: các nhà
ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với trên 251,4 tỷ USD (chiếm
59,2%
tổng vốn đầu tư). Tiếp theo là
các lĩnh vực kinh doanh bất động sản với trên 65,1 tỷ USD (chiếm 15,3% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân
phối điện với trên 36,46 tỷ
USD (chiếm 8,6% tổng
vốn đầu tư).
- Theo đối tác đầu tư: Hiện có 139
quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn
Quốc với tổng vốn đăng ký gần 78,7 tỷ USD (chiếm 18,5% tổng vốn đầu tư). Singapore
đứng thứ hai
với trên 68,4 tỷ USD (chiếm 16,1% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông,...
- Theo địa bàn: ĐTNN đã có mặt ở
tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với trên 53,6 tỷ
USD (chiếm 12,6% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Bình Dương với trên 39,4 tỷ USD (chiếm 9,3% tổng vốn đầu tư); Hà
Nội với gần 37,7 tỷ USD (chiếm gần 8,9% tổng vốn đầu tư).
ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư Việt Nam gần
21,55 tỷ USD. Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tập trung nhiều nhất vào các
ngành khai khoáng (32,3%); nông, lâm nghiệp, thủy sản (15,8%). Các địa bàn nhận
đầu tư của Việt Nam nhiều nhất lần lượt là Lào (24,8%); Campuchia (13,6%);
Venezuela (8,5%);…