Tính lũy kế đến ngày 20/11/2021, cả nước có 34.424 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký gần 405,9 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của
các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt gần 249 tỷ USD, bằng 61,3% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Thông tin chi tiết như sau:
I. VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM
1. Tình hình thu hút ĐTNN
11
tháng năm 2021
1.1. Tình hình hoạt động
Vốn thực hiện:
Ước
tính các dự án đầu tư nước ngoài đã giải ngân được 17,1 tỷ USD trong 11
tháng năm 2021, giảm 4,2% so với cùng kỳ năm 2020, giảm nhẹ 0,1 điểm phần trăm so với 10 tháng năm 2021.
Tình hình xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu: Kim
ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tiếp tục tăng trong 11 tháng, song mức độ tăng giảm nhẹ so với 10 tháng. Xuất
khẩu kể cả dầu thô ước
đạt gần 220,2 tỷ USD, tăng 19,7% so với
cùng kỳ, chiếm 73,6%
kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt gần 218,5 tỷ USD, tăng 19,8% so với cùng
kỳ, chiếm 73,1% kim
ngạch xuất khẩu cả nước.
Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực
ĐTNN ước đạt trên 195,5 tỷ USD, tăng 29,5% so cùng kỳ và chiếm 65,5% kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Tính chung trong 11 tháng
năm 2021, khu vực ĐTNN xuất siêu trên 24,6 tỷ USD kể cả dầu thô và
xuất siêu gần 23 tỷ USD không kể dầu thô. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập
siêu 24,3 tỷ USD.
1.2. Tình hình đăng ký đầu tư
Tính đến 20/11/2021, tổng vốn
đăng ký cấp mới, điều chỉnh và GVMCP của nhà ĐTNN đạt 26,46 tỷ USD, tăng 0,1% so với cùng
kỳ năm 2020. Vốn đăng ký mới và vốn điều chỉnh
tiếp tục duy trì mức tăng so với cùng kỳ. Trong khi đó, GVMCP vẫn giảm. Cụ thể:
Vốn đăng ký mới: Có 1.577
dự án mới
được cấp GCNĐKĐT (giảm 31,8%),
tổng vốn
đăng ký đạt gần 14,1 tỷ USD (tăng 3,76% so với cùng kỳ).
Vốn điều chỉnh: Có 877 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (giảm 16,6%),
tổng vốn
đăng ký tăng thêm đạt trên 8 tỷ USD (tăng 26,7% so với cùng kỳ).
Góp vốn, mua cổ phần: Có 3.466 lượt GVMCP của nhà ĐTNN (giảm 40,4%),
tổng giá trị
vốn góp đạt gần 4,4 tỷ USD (giảm 33% so với cùng kỳ).
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục I kèm theo).
Theo ngành:
Các nhà đầu tư nước
ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt trên 14 tỷ USD, chiếm 53% tổng vốn đầu tư đăng ký. Ngành sản xuất, phân phối điện mặc dù thu hút được số lượng dự án mới, điều chỉnh cũng như GVMCP
không nhiều, song với quy mô dự án lớn nên đứng thứ 2 với tổng
vốn đầu tư trên 5,7 tỷ USD, chiếm 21,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo
lần lượt là các ngành kinh
doanh bất động sản, bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đăng ký đạt lần lượt là 2,41 tỷ USD và 1,27 tỷ USD. Còn lại là các ngành khác.
Cơ cấu ĐTNN 11 tháng năm
2021 theo ngành
Nếu xét về số lượng dự án mới thì công nghiệp chế biến chế
tạo, bán buôn bán lẻ và hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ là các ngành
thu hút được nhiều dự án nhất, chiếm lần lượt 30,5%, 28,1% và 16,5% tổng số dự
án.
Theo đối tác:
Đã có 100 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư
tại Việt Nam trong 11 tháng
năm 2021. Trong đó, Singapore dẫn
đầu với tổng vốn đầu tư trên
7,6 tỷ USD, chiếm 28,7% tổng vốn
đầu tư vào Việt Nam, giảm 5,9%
so với cùng kỳ 2020; Hàn
Quốc đứng thứ hai với 4,36 tỷ
USD, chiếm 16,5% tổng vốn đầu
tư, tăng 17,6% so với cùng kỳ. Nhật Bản đứng thứ 3 với tổng
vốn đầu tư đăng ký 3,7 tỷ USD,
chiếm gần 14% tổng vốn
đầu tư, tăng 54% so với cùng
kỳ. Tiếp theo là Trung
Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,…
Trong 11 tháng 2021, vốn đầu tư của Singapore gấp 1,74 lần
vốn đầu tư của Hàn Quốc và gấp 2,1 lần vốn đầu tư của Nhật Bản do Singapore có
dự án lớn 3,1 tỷ USD.
Riêng dự án này đã chiếm tới 41% tổng vốn đầu tư của Singapore. Hàn Quốc mặc dù
chỉ xếp thứ 2 về vốn đầu tư, song lại là đối tác dẫn đầu về số dự án đầu tư mới,
số lượt dự án điều chỉnh vốn cũng như số lượt GVMCP.
Như vậy, nếu xét về số lượng dự án, Hàn Quốc là đối tác có nhiều nhà đầu tư
quan tâm và đưa ra các quyết định đầu tư mới cũng như mở rộng dự án đầu tư nhất
trong 11 tháng.
Cơ cấu ĐTNN 11 tháng năm
2021 theo đối tác
Theo địa bàn:
Các nhà ĐTNN đã đầu
tư vào 58 tỉnh, thành
phố trên cả nước trong 11 tháng. Long An dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,76 tỷ USD, chiếm 14,2% tổng vốn đầu tư đăng ký, trong đó có dự án điện lớn lên tới 3,1 tỷ USD (chiếm tới 82,4% tổng vốn đầu tư của Long
An). TP Hồ Chí Minh đứng vị trí thứ 2 với gần 3,43 tỷ USD, chiếm gần 13% tổng vốn đầu tư. Hải Phòng đứng thứ 3 với tổng vốn
đăng ký trên 2,8 tỷ USD, chiếm 10,7% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt là Bình Dương, Cần Thơ, Quảng Ninh,…
Nếu xét về số dự án, các nhà ĐTNN vẫn
tập trung đầu tư nhiều tại các thành phố lớn, có cơ sở hạ tầng thuận lợi như
TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bắc Ninh. Trong đó, TP Hồ Chí Minh dẫn đầu cả về số dự
án mới (36%), số lượt dự án điều chỉnh (18,5%) và GVMCP (59,6%). Hà Nội tuy
không thuộc top 5 địa phương thu hút ĐTNN trong 11 tháng, song xếp thứ 2 về số
dự án mới (21,8%) và số lượt GVMCP (12,5%).
Cơ cấu ĐTNN 11 tháng năm
2021 theo địa phương
(Biểu số
liệu chi tiết tại Phụ lục II kèm theo).
Một số
dự án lớn trong 11 tháng năm 2021:
(1) Dự án Nhà máy điện LNG Long An I
và II (Singapore), tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD với mục tiêu truyền tải và
phân phối điện, sản xuất điện tại Long An (cấp GCNĐKĐT ngày 19/3/2021).
(2) Dự án LG Display Hải Phòng (Hàn Quốc), điều chỉnh tăng vốn đầu tư
thêm 2,15 tỷ USD (trong đó điều chỉnh tăng 1,4 tỷ USD ngày 30/8/2021 và tăng
750 triệu USD ngày 04/02/2021).
(3) Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản), tổng vốn đăng ký trên
1,31 tỷ USD với mục tiêu xây dựng một nhà máy nhiệt điện nhằm đáp ứng nhu cầu
cung cấp điện cho lưới điện khu vực và hệ thống điện quốc gia tại Cần Thơ (cấp
GCNĐKĐT ngày 22/01/2021).
(4) Dự án nhà máy sản xuất giấy
Kraft Vina công suất 800.000 tấn/năm (Nhật Bản), tổng vốn đầu tư 611,4 triệu
USD với mục tiêu sản xuất giấy kraft, giấy lót và giấy bao bì tại Vĩnh Phúc
(cấp GCNĐKĐT ngày 23/7/2021).
(5) Dự án Nhà máy Công ty TNHH Polytex Far Eastern Việt Nam (Đài Loan),
điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 610 triệu USD (GCNĐT điều chỉnh cấp ngày
13/5/2021).
2. Nhận xét về tình
hình đầu tư nước ngoài trong 11 tháng đầu năm 2021.
- Vốn đầu tư
thực hiện của các dự án ĐTNN trong 11 tháng tiếp tục giảm 4,2% so với cùng kỳ
và giảm nhẹ so 0,1 điểm phần trăm so với 10 tháng.
Đại dịch covid-19 đang dần được kiểm soát. Chính phủ và các cơ quan chức năng đã kịp thời vào cuộc, ban hành
nhiều giải pháp, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh
nghiệp cũng như các quy định, hướng dẫn thích ứng với tình hình mới của đại
dịch. Các doanh nghiệp cũng đang dần khôi phục hoạt
động sản xuất kinh doanh.
- Vốn đầu tư
đăng ký mới và vốn đầu tư điều chỉnh tiếp tục duy trì tăng. Mức tăng tuy giảm ở
vốn cấp mới nhưng lại tăng lên ở vốn điều chỉnh so với 10 tháng. Số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh vẫn giảm so với
cùng kỳ (tương ứng 31,8% và 16,6%) song mức giảm số lượng dự án mới tiếp tục được
cải thiện so với 10 tháng. Việc suy giảm số dự án này chủ yếu tập trung vào
nhóm dự án quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD).
- Xuất nhập khẩu
của khu vực ĐTNN tiếp tục tăng trong 11 tháng đầu năm. Khu vực ĐTNN xuất siêu trên 24,6 tỷ USD kể cả dầu thô. Tuy nhiên, mức xuất siêu của khu vực
ĐTNN không đủ bù đắp phần nhập siêu 24,3 tỷ của khu vực trong nước. Vì vậy cả
nước nhập siêu 0,3 tỷ USD trong 11 tháng. Mặc dù vậy mức độ nhập siêu của cả
nước đã giảm nhiều so với các tháng trước.
Một số
nguyên nhân làm giảm số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh và GVMCP
* Nguyên nhân khách quan:
- Dòng vốn ĐTNN toàn cầu nửa đầu năm 2021 phục hồi tốt
hơn dự kiến, tuy
nhiên niềm tin của nhà đầu tư vào ngành
và chuỗi giá trị toàn cầu vẫn còn lung lay. Số lượng các dự án mới trong các
ngành thâm dụng vào chuỗi giá trị toàn cầu (như điện tử, ô tô và hóa chất) đều
giảm.
- Sự cạnh tranh
trong thu hút ĐTNN giữa các quốc gia ngày càng gia tăng.
- Hoạt động
M&A toàn cầu giảm sút.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Chính sách thu hút đầu tư có chọn lọc của Việt Nam
(giảm số lượng, tăng về chất lượng) làm loại bỏ các dự án quy mô nhỏ, ít giá
trị gia tăng.
-
Việc hạn chế nhập cảnh và chính sách cách
ly dài ngày trong những tháng dịch covid-19 bùng phát trở lại ở Việt Nam làm
chững lại các đoàn chuyên gia và nhóm phát triển dự án vào Việt Nam khảo sát và
làm các thủ tục đầu tư. Ngoài ra, việc phong tỏa nhà máy và hạn chế di chuyển
của người lao động trong các KCN làm đình trệ sản xuất, giảm công suất và sản
lượng, đứt gãy chuỗi cung ứng cũng góp phần làm ảnh hưởng đến tâm lý của các
nhà đầu tư mới đang có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam.
-
Do đóng cửa nhà máy, thiếu hụt lao động để sản xuất nên nhiều đơn hàng phải
chuyển sang các địa bàn khác trong chuỗi cung ứng.
3. Tình hình
ĐTNN luỹ kế tới 20/11/2021
Tính lũy kế
đến ngày 20/10/2021, cả nước có 34.424 dự án còn
hiệu lực với tổng vốn đăng ký 405,89 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước
ngoài ước đạt gần
249 tỷ USD, bằng
61,3%
tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.
- Theo ngành: các nhà
ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với 240,23 tỷ USD, chiếm 59,2% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 61,56 tỷ USD
(chiếm 15,2%
tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với 33,88 tỷ USD (chiếm 8,3% tổng vốn đầu
tư).
- Theo đối tác đầu tư: Hiện có 141
quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn
Quốc với tổng vốn đăng ký trên 74,1 tỷ USD (chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư). Nhật Bản đứng thứ hai với trên 64,2 tỷ USD (chiếm 15,8% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài
Loan, Hồng Kông.
- Theo địa bàn: ĐTNN đã có mặt ở
tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với gần 49,4 tỷ USD (chiếm 12,2% tổng vốn đầu tư); tiếp
theo là Bình Dương với 37,1 tỷ USD (chiếm 9,2% tổng vốn đầu tư); Hà Nội với trên 37 tỷ USD (chiếm gần 9,1% tổng vốn đầu tư).
(Biểu số
liệu chi tiết tại Phụ lục III kèm theo báo cáo)
II. VỀ ĐẦU
TƯ CỦA VIỆT NAM RA NƯỚC NGOÀI
Trong 11 tháng năm
2021, tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài cấp mới và điều chỉnh đạt 677,29 triệu USD (tăng 38,1% so với cùng kỳ). Trong đó có 52 dự án được cấp giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư mới, với tổng vốn đăng
ký đạt gần 244,53 triệu USD
(bằng
77,3% so với cùng kỳ) và 19 lượt dự án điều chỉnh
vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm gần 432,76
triệu USD (gấp gần 2,5 lần so với cùng kỳ).
Các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư
ra nước ngoài ở 15 ngành. Trong đó hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ dẫn đầu với 3 lượt dự án điều chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt trên 270,8 triệu USD, chiếm gần 40% tổng vốn đầu tư. Ngành bán buôn, bán lẻ đứng thứ 2, với tổng vốn
đầu tư trên 152,1 triệu USD, chiếm 22,5%; tiếp theo là các ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản; công nghiệp chế biến, chế tạo,…
Có 22
quốc gia, vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam trong 11 tháng năm 2021. Dẫn đầu là Hoa Kỳ với 3 dự án đầu tư mới và 3 dự án điều
chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt gần 305,3 triệu USD, chiếm 45,1% tổng vốn đầu tư. Đứng thứ hai là Campuchia với tổng vốn đầu tư gần 89,4 triệu USD,
chiếm 13,2% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt là Israel, Canada,… với vốn đầu
tư đạt 71,55 triệu USD và gần
57,6 triệu USD.
Lũy kế đến 20/11/2021, Việt Nam đã có
1.439 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư Việt Nam trên
21,9 tỷ USD. Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tập trung nhiều nhất vào các ngành
khai khoáng (36,3%); nông, lâm nghiệp, thủy sản (15,3%). Các địa bàn nhận đầu
tư của Việt Nam nhiều nhất lần lượt là Lào (23,7%); Campuchia (13 %); Nga (12,8%);…
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ
lục IV và V kèm theo).
Trong 11 tháng
năm 2021 số lượng dự án quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD) giảm 34,8%
so với cùng kỳ năm 2020.