BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
CỤC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Thứ Năm, 21/11/2024
Số liệu FDI hàng tháng
Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 11 tháng năm 2021
Thứ Ba, 30/11/2021 06:05
Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 11 tháng năm 2021

Tính đến 20/11/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt 26,46 tỷ USD, tăng nhẹ 0,1% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 17,1 tỷ USD, giảm 4,2% so với cùng kỳ năm 2020.

Tính lũy kế đến ngày 20/11/2021, cả nước có 34.424 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 405,9 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt gần 249 tỷ USD, bằng 61,3% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.

Thông tin chi tiết như sau:

I. VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

1. Tình hình thu hút ĐTNN 11 tháng năm 2021

1.1. Tình hình hoạt động

Vốn thực hiện:

Ước tính các dự án đầu tư nước ngoài đã giải ngân được 17,1 tỷ USD trong 11 tháng năm 2021, giảm 4,2% so với cùng kỳ năm 2020, giảm nhẹ 0,1 điểm phần trăm so với 10 tháng năm 2021.

Tình hình xuất, nhập khẩu:

Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tiếp tục tăng trong 11 tháng, song mức độ tăng giảm nhẹ so với 10 tháng[1]. Xuất khẩu kể cả dầu thô ước đạt gần 220,2 tỷ USD, tăng 19,7% so với cùng kỳ, chiếm 73,6% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt gần 218,5 tỷ USD, tăng 19,8% so với cùng kỳ, chiếm 73,1% kim ngạch xuất khẩu cả nước.

Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực ĐTNN ước đạt trên 195,5 tỷ USD, tăng 29,5% so cùng kỳ và chiếm 65,5% kim ngạch nhập khẩu cả nước.

Tính chung trong 11 tháng năm 2021, khu vực ĐTNN xuất siêu trên 24,6 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu gần 23 tỷ USD không kể dầu thô. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu 24,3 tỷ USD.

1.2. Tình hình đăng ký đầu tư

Tính đến 20/11/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và GVMCP của nhà ĐTNN đạt 26,46 tỷ USD, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn đăng ký mới và vốn điều chỉnh tiếp tục duy trì mức tăng so với cùng kỳ. Trong khi đó, GVMCP vẫn giảm. Cụ thể:

Vốn đăng ký mới: Có 1.577 dự án mới được cấp GCNĐKĐT (giảm 31,8%), tổng vốn đăng ký đạt gần 14,1 tỷ USD (tăng 3,76% so với cùng kỳ).

Vốn điều chỉnh: Có 877 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (giảm 16,6%), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt trên 8 tỷ USD (tăng 26,7% so với cùng kỳ).

Góp vốn, mua cổ phần: Có 3.466 lượt GVMCP của nhà ĐTNN (giảm 40,4%), tổng giá trị vốn góp đạt gần 4,4 tỷ USD (giảm 33% so với cùng kỳ).

 (Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục I kèm theo).

  Theo ngành:

Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt trên 14 tỷ USD, chiếm 53% tổng vốn đầu tư đăng ký. Ngành sản xuất, phân phối điện mặc dù thu hút được số lượng dự án mới, điều chỉnh cũng như GVMCP không nhiều, song với quy mô dự án lớn nên đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư trên 5,7 tỷ USD, chiếm 21,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo lần lượt là các ngành kinh doanh bất động sản, bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đăng ký đạt lần lượt là 2,41 tỷ USD và 1,27 tỷ USD. Còn lại là các ngành khác.

Cơ cấu ĐTNN 11 tháng năm 2021 theo ngành

 

Nếu xét về số lượng dự án mới thì công nghiệp chế biến chế tạo, bán buôn bán lẻ và hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ là các ngành thu hút được nhiều dự án nhất, chiếm lần lượt 30,5%, 28,1% và 16,5% tổng số dự án.

Theo đối tác:

Đã có 100 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam trong 11 tháng năm 2021. Trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư trên 7,6 tỷ USD, chiếm 28,7% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, giảm 5,9% so với cùng kỳ 2020; Hàn Quốc đứng thứ hai với 4,36 tỷ USD, chiếm 16,5% tổng vốn đầu tư, tăng 17,6% so với cùng kỳ. Nhật Bản đứng thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,7 tỷ USD[2], chiếm gần 14% tổng vốn đầu tư, tăng 54% so với cùng kỳ. Tiếp theo là Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,…

Trong 11 tháng 2021, vốn đầu tư của Singapore gấp 1,74 lần vốn đầu tư của Hàn Quốc và gấp 2,1 lần vốn đầu tư của Nhật Bản do Singapore có dự án lớn 3,1 tỷ USD[3]. Riêng dự án này đã chiếm tới 41% tổng vốn đầu tư của Singapore. Hàn Quốc mặc dù chỉ xếp thứ 2 về vốn đầu tư, song lại là đối tác dẫn đầu về số dự án đầu tư mới, số lượt dự án điều chỉnh vốn cũng như số lượt GVMCP[4]. Như vậy, nếu xét về số lượng dự án, Hàn Quốc là đối tác có nhiều nhà đầu tư quan tâm và đưa ra các quyết định đầu tư mới cũng như mở rộng dự án đầu tư nhất trong 11 tháng.

Cơ cấu ĐTNN 11 tháng năm 2021 theo đối tác

 

Theo địa bàn:

Các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 58 tỉnh, thành phố trên cả nước trong 11 tháng. Long An dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,76 tỷ USD, chiếm 14,2% tổng vốn đầu tư đăng ký, trong đó có dự án điện lớn lên tới 3,1 tỷ USD (chiếm tới 82,4% tổng vốn đầu tư của Long An). TP Hồ Chí Minh đứng vị trí thứ 2 với gần 3,43 tỷ USD, chiếm gần 13% tổng vốn đầu tư. Hải Phòng đứng thứ 3 với tổng vốn đăng ký trên 2,8 tỷ USD, chiếm 10,7% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt là Bình Dương, Cần Thơ, Quảng Ninh,…

          Nếu xét về số dự án, các nhà ĐTNN vẫn tập trung đầu tư nhiều tại các thành phố lớn, có cơ sở hạ tầng thuận lợi như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bắc Ninh. Trong đó, TP Hồ Chí Minh dẫn đầu cả về số dự án mới (36%), số lượt dự án điều chỉnh (18,5%) và GVMCP (59,6%). Hà Nội tuy không thuộc top 5 địa phương thu hút ĐTNN trong 11 tháng, song xếp thứ 2 về số dự án mới (21,8%) và số lượt GVMCP (12,5%).

Cơ cấu ĐTNN 11 tháng năm 2021 theo địa phương

 

(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục II kèm theo).

 Một số dự án lớn trong 11 tháng năm 2021:

          (1) Dự án Nhà máy điện LNG Long An I và II (Singapore), tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD với mục tiêu truyền tải và phân phối điện, sản xuất điện tại Long An (cấp GCNĐKĐT ngày 19/3/2021).

(2) Dự án LG Display Hải Phòng (Hàn Quốc), điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 2,15 tỷ USD (trong đó điều chỉnh tăng 1,4 tỷ USD ngày 30/8/2021 và tăng 750 triệu USD ngày 04/02/2021).

(3) Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản), tổng vốn đăng ký trên 1,31 tỷ USD với mục tiêu xây dựng một nhà máy nhiệt điện nhằm đáp ứng nhu cầu cung cấp điện cho lưới điện khu vực và hệ thống điện quốc gia tại Cần Thơ (cấp GCNĐKĐT ngày 22/01/2021).

 (4) Dự án nhà máy sản xuất giấy Kraft Vina công suất 800.000 tấn/năm (Nhật Bản), tổng vốn đầu tư 611,4 triệu USD với mục tiêu sản xuất giấy kraft, giấy lót và giấy bao bì tại Vĩnh Phúc (cấp GCNĐKĐT ngày 23/7/2021).

(5) Dự án Nhà máy Công ty TNHH Polytex Far Eastern Việt Nam (Đài Loan), điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 610 triệu USD (GCNĐT điều chỉnh cấp ngày 13/5/2021).

2. Nhận xét về tình hình đầu tư nước ngoài trong 11 tháng đầu năm 2021.

- Vốn đầu tư thực hiện của các dự án ĐTNN trong 11 tháng tiếp tục giảm 4,2% so với cùng kỳ và giảm nhẹ so 0,1 điểm phần trăm so với 10 tháng[5]. Đại dịch covid-19 đang dần được kiểm soát. Chính phủ và các cơ quan chức năng đã kịp thời vào cuộc, ban hành nhiều giải pháp, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp cũng như các quy định, hướng dẫn thích ứng với tình hình mới của đại dịch[6]. Các doanh nghiệp cũng đang dần khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Vốn đầu tư đăng ký mới và vốn đầu tư điều chỉnh tiếp tục duy trì tăng. Mức tăng tuy giảm ở vốn cấp mới nhưng lại tăng lên ở vốn điều chỉnh so với 10 tháng[7]. Số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh vẫn giảm so với cùng kỳ (tương ứng 31,8% và 16,6%) song mức giảm số lượng dự án mới tiếp tục được cải thiện so với 10 tháng[8]. Việc suy giảm số dự án này chủ yếu tập trung vào nhóm dự án quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD)[9]. 

- Xuất nhập khẩu của khu vực ĐTNN tiếp tục tăng trong 11 tháng đầu năm. Khu vực ĐTNN xuất siêu trên 24,6 tỷ USD kể cả dầu thô. Tuy nhiên, mức xuất siêu của khu vực ĐTNN không đủ bù đắp phần nhập siêu 24,3 tỷ của khu vực trong nước. Vì vậy cả nước nhập siêu 0,3 tỷ USD trong 11 tháng. Mặc dù vậy mức độ nhập siêu của cả nước đã giảm nhiều so với các tháng trước[10].

Một số nguyên nhân làm giảm số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh và GVMCP

* Nguyên nhân khách quan:

- Dòng vốn ĐTNN toàn cầu nửa đầu năm 2021 phục hồi tốt hơn dự kiến[11], tuy nhiên niềm tin của nhà đầu tư vào ngành và chuỗi giá trị toàn cầu vẫn còn lung lay. Số lượng các dự án mới trong các ngành thâm dụng vào chuỗi giá trị toàn cầu (như điện tử, ô tô và hóa chất) đều giảm[12].

- Sự cạnh tranh trong thu hút ĐTNN giữa các quốc gia ngày càng gia tăng.

- Hoạt động M&A toàn cầu giảm sút.

* Nguyên nhân chủ quan:

- Chính sách thu hút đầu tư có chọn lọc của Việt Nam (giảm số lượng, tăng về chất lượng) làm loại bỏ các dự án quy mô nhỏ, ít giá trị gia tăng.

- Việc hạn chế nhập cảnh và chính sách cách ly dài ngày trong những tháng dịch covid-19 bùng phát trở lại ở Việt Nam làm chững lại các đoàn chuyên gia và nhóm phát triển dự án vào Việt Nam khảo sát và làm các thủ tục đầu tư. Ngoài ra, việc phong tỏa nhà máy và hạn chế di chuyển của người lao động trong các KCN làm đình trệ sản xuất, giảm công suất và sản lượng, đứt gãy chuỗi cung ứng cũng góp phần làm ảnh hưởng đến tâm lý của các nhà đầu tư mới đang có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam.

- Do đóng cửa nhà máy, thiếu hụt lao động để sản xuất nên nhiều đơn hàng phải chuyển sang các địa bàn khác trong chuỗi cung ứng.

3. Tình hình ĐTNN luỹ kế tới 20/11/2021

Tính lũy kế đến ngày 20/10/2021, cả nước có 34.424 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 405,89 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt gần 249 tỷ USD, bằng 61,3% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.

- Theo ngành: các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với 240,23 tỷ USD, chiếm 59,2% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 61,56 tỷ USD (chiếm 15,2% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với 33,88 tỷ USD (chiếm 8,3% tổng vốn đầu tư).

- Theo đối tác đầu tư: Hiện có 141 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký trên 74,1 tỷ USD (chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư). Nhật Bản đứng thứ hai với trên 64,2 tỷ USD (chiếm 15,8% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài Loan, Hồng Kông.

- Theo địa bàn: ĐTNN đã có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với gần 49,4 tỷ USD (chiếm 12,2% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Bình Dương với  37,1 tỷ USD (chiếm 9,2% tổng vốn đầu tư); Hà Nội với trên 37 tỷ USD (chiếm gần 9,1% tổng vốn đầu tư).

(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục III kèm theo báo cáo)

II. VỀ ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM RA NƯỚC NGOÀI

Trong 11 tháng năm 2021, tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài cấp mới và điều chỉnh đạt 677,29 triệu USD (tăng 38,1% so với cùng kỳ). Trong đó có 52 dự án được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới, với tổng vốn đăng ký đạt gần 244,53 triệu USD (bằng 77,3% so với cùng kỳ)19 lượt dự án điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm gần 432,76 triệu USD (gấp gần 2,5 lần so với cùng kỳ[13]).

Các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài ở 15 ngành. Trong đó hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ dẫn đầu với 3 lượt dự án điều chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt trên 270,8 triệu USD, chiếm gần 40% tổng vốn đầu tư. Ngành bán buôn, bán lẻ đứng thứ 2, với tổng vốn đầu tư trên 152,1 triệu USD, chiếm 22,5%; tiếp theo là các ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản; công nghiệp chế biến, chế tạo,…

22 quốc gia, vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam trong 11 tháng năm 2021. Dẫn đầu là Hoa Kỳ với 3 dự án đầu tư mới và 3 dự án điều chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt gần 305,3 triệu USD, chiếm 45,1% tổng vốn đầu tư. Đứng thứ hai là Campuchia với tổng vốn đầu tư gần 89,4 triệu USD, chiếm 13,2% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt là Israel, Canada,… với vốn đầu tư đạt 71,55 triệu USD và gần 57,6 triệu USD.

          Lũy kế đến 20/11/2021, Việt Nam đã có 1.439 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư Việt Nam trên 21,9 tỷ USD. Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tập trung nhiều nhất vào các ngành khai khoáng (36,3%); nông, lâm nghiệp, thủy sản (15,3%). Các địa bàn nhận đầu tư của Việt Nam nhiều nhất lần lượt là Lào (23,7%); Campuchia (13 %); Nga (12,8%);…

 (Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục IV và V kèm theo).



[1] 10 tháng năm 2021, xuất khẩu kể cả dầu thô tăng 20,1%; xuất khẩu không kể dầu thô tăng 20,3%.

[2] Vốn đầu tư của Nhật Bản chủ yếu là vốn đầu tư mới (73,1% số vốn) và mở rộng dự án hiện hữu (20,4% số vốn). GVMCP chỉ chiếm 6,5% vốn đầu tư của Nhật.

[3] Dự án Nhà máy điện LNG Long An I và II (Singapore).

[4] 11 tháng năm 2021, Hàn Quốc chiếm 20,4% số dự án mới (gấp gần 1,6 lần số dự án mới của Singapore); chiếm 28,7% số lượt dự án điều chỉnh vốn (gấp 2,9 lần số lượt điều chỉnh vốn của Singapore); chiếm 34,4% số lượt GVMCP (gấp 4 lần số lượt GVMCP của Singapore).

[5] 10 tháng năm 2021, vốn đầu tư thực hiện giảm 4,1% so với cùng kỳ.

[6] Nghị quyết 105/NQ-CP ngày 9/9/2021 về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch covid - 19; Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 ban hành quy định tạm thời “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch covid – 19”.

[7] 10 tháng năm 2021, vốn đăng ký mới tăng 11,6% và vốn điều chỉnh tăng 24,2% so với cùng kỳ năm 2020.

[8] 10 tháng năm 2021, số dự án mới giảm 34,5%.

[9] Trong 11 tháng năm 2021 số lượng dự án quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD) giảm 34,8% so với cùng kỳ năm 2020.

[10] 10 tháng năm 2021 cả nước nhập siêu 2 tỷ USD; 9 tháng nhập siêu 3,6 tỷ USD; 8 tháng nhập siêu 3,7 tỷ USD.

[11] Vốn FDI toàn cầu nửa đầu năm 2021 đạt 852 tỷ USD cho thấy đà phục hồi tốt hơn dự kiến. Các nền kinh tế phát triển ghi nhận mức tăng lớn nhất với dòng vốn ĐTNN ước tính đạt 424 tỷ USD trong nửa đầu năm 2021, gấp hơn ba lần so với mức đặc biệt thấp vào năm 2020 (theo UNCTAD).

[12] Theo Giám sát Xu hướng Đầu tư của Hội nghị Liên hợp quốc tế về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) công bố.

[13] Vốn đầu tư điều chỉnh tăng mạnh do có dự án của Vingroup tại Hoa Kỳ điều chỉnh tăng 300 triệu USD; dự án Công ty TNHH Đầu tư và phát triển cao su Đông Dương tại Campuchia tăng 76 triệu USD và 01 dự án của Vinfast tại Đức tăng 32 triệu USD.

Theo Cục ĐTNN
Số lượt đọc: 12556

File đính kèm:

Thông báo