Tính đến 20/5/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh
và góp vốn mua cổ phần,
mua phần vốn góp (M&A) của nhà ĐTNN đạt gần 14 tỷ USD, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn thực hiện của dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài ước đạt 7,15 tỷ USD,
tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2020.
Tính lũy kế đến ngày 20/5/2021, cả nước có 33.615 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký 396,86 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của
các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 240 tỷ USD, bằng 60,5% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Thông tin chi tiết như sau:
I. VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM
1. Tình hình thu hút ĐTNN
5
tháng đầu năm 2021
1.1. Tình hình hoạt động
Vốn thực hiện:
Tính tới 20/05/2021, ước tính các dự án đầu
tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 7,15
tỷ USD, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2020.
Tình hình xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu: Kim
ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tiếp tục tăng mạnh trong 5 tháng đầu năm. Xuất khẩu
(kể cả dầu thô) ước đạt trên 98 tỷ USD, tăng 36,5% so với
cùng kỳ, chiếm 74,9%
kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt 97,4 tỷ USD, tăng 37% so với cùng
kỳ, chiếm 74,4% kim
ngạch xuất khẩu cả nước.
Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực
ĐTNN ước đạt trên 85,4 tỷ USD, tăng 39,7% so cùng kỳ và chiếm 65,3% kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Tính chung trong 5 tháng đầu năm 2021, khu vực ĐTNN xuất siêu 14,4 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu 12,6
tỷ USD không
kể dầu thô. Xuất siêu khu vực ĐTNN đã bù
đắp phần nhập siêu 12,5 tỷ USD của khu vực doanh nghiệp trong nước, giúp cả
nước xuất siêu khoảng 131 triệu USD.
1.2. Tình hình đăng ký đầu tư
Tính đến 20/05/2021, tổng vốn
đăng ký cấp mới, điều chỉnh và M&A của nhà ĐTNN đạt gần 14 tỷ USD, tăng 0,8% so với cùng
kỳ năm 2020. Ngoài vốn đầu tư theo phương thức
M&A giảm, thì cả vốn đầu tư mới và vốn điều chỉnh đều tăng lên trong 5
tháng đầu năm.
Trong đó:
Vốn đăng ký mới: Có 613
dự án mới
được cấp GCNĐKĐT (giảm 49,4% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký đạt
gần 8,83 tỷ
USD (tăng 18,6% so với cùng kỳ năm 2020).
Vốn điều chỉnh: Có 342 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (giảm 21,6% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký tăng
thêm đạt 3,86 tỷ USD (tăng
11,7% so với cùng kỳ).
Góp vốn, mua cổ phần: Có 1.422 lượt M&A của nhà ĐTNN (giảm 59,7% so với cùng kỳ), tổng giá trị vốn góp đạt
1,31 tỷ USD (giảm 56,3% so
với cùng kỳ).
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục I kèm theo
báo cáo).
Theo lĩnh vực đầu tư:
Các nhà đầu tư nước
ngoài đã đầu tư vào 18 ngành lĩnh
vực, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu
tư đạt 6,14 tỷ USD, chiếm 43,9% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực sản xuất, phân phối điện đứng thứ 2 với tổng
vốn đầu tư 5,43 tỷ USD, chiếm 38,8% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo
lần lượt là các lĩnh vực kinh
doanh bất động sản, bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đăng ký đạt 1,05 tỷ USD và gần 522 triệu USD. Còn lại là các
lĩnh vực khác.
Theo đối tác
đầu tư:
Đã có 70 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư
tại Việt Nam trong 5 tháng
đầu năm. Singapore dẫn
đầu với tổng vốn đầu tư 5,26
tỷ USD, chiếm gần 37,6% tổng vốn
đầu tư vào Việt Nam; Nhật Bản đứng thứ hai
với tổng vốn đầu tư 2,59 tỷ USD, chiếm 18,5% tổng vốn đầu tư (trong
đó vốn đầu tư của Singapore và Nhật Bản chủ yếu theo hình thức đầu tư mới,
chiếm lần lượt 84,4% và 70,7% tổng vốn đăng ký của 2 quốc gia này). Hàn Quốc đứng thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký 1,83 tỷ USD, chiếm 13,1% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,…
Theo địa bàn đầu tư:
Các nhà ĐTNN đã đầu
tư vào 56 tỉnh, thành
phố trên cả nước trong 5 tháng
đầu năm. Long An dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,35 tỷ USD, chiếm 23,9% tổng vốn đầu tư đăng ký. TP Hồ Chí Minh đứng thứ 2 với tổng vốn đăng
ký 1,34 tỷ USD, chiếm 9,6% tổng vốn đầu tư. Cần Thơ đứng thứ 3 với 1,32 tỷ USD, chiếm 9,4% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt
là Bình Dương, Hải Phòng, Bắc
Giang…
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục II kèm theo).
Một số dự án lớn trong 5 tháng đầu năm 2021:
(1) Dự án Nhà máy điện LNG Long An I
và II (Singapore), tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD với mục tiêu truyền tải và
phân phối điện, sản xuất điện tại Long An (cấp GCNĐKĐT ngày 19/3/2021).
(2) Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản), tổng vốn đăng ký trên
1,31 tỷ USD với mục tiêu xây dựng một nhà máy nhiệt điện nhằm đáp ứng nhu cầu
cung cấp điện cho lưới điện khu vực và hệ thống điện quốc gia tại Cần Thơ (cấp
GCNĐKĐT ngày 22/01/2021).
(3) Dự án LG Display Hải Phòng (Hàn Quốc), điều chỉnh tăng vốn đầu tư
thêm 750 triệu USD (GCNĐT điều chỉnh cấp ngày 04/02/2021).
(4) Dự án Nhà máy Công ty TNHH Polytex Far Eastern Việt Nam (Đài Loan)
tại Bình Dương, điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 610 triệu USD (GCNĐT điều chỉnh
cấp ngày 13/5/2021).
(5) Dự án Công nghệ tế bào quang điện Jinko Solar PV Việt Nam (Hồng
Kông), tổng vốn đầu tư đăng ký 498 triệu USD với mục tiêu sản xuất tấm quang năng
và sản xuất thiết bị điện khác tại Quảng Ninh (GCNĐKĐT ngày 29/3/2021).
2. Nhận xét về tình
hình đầu tư nước ngoài trong 5 tháng đầu năm 2021.
- Mặc dù vẫn bị ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, song nhiều doanh
nghiệp ĐTNN tiếp tục phục hồi và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh tốt. Vốn
đầu tư thực hiện của các dự án ĐTNN trong 5 tháng đầu năm tăng 6,7% so với cùng
kỳ.
- Vốn đầu tư đăng ký mới vẫn tiếp tục tăng trong 5 tháng đầu năm 2021, cùng
với vốn đăng ký điều chỉnh đã tăng trở lại (tăng
11,7%) sau khi giảm trong 4 tháng, góp phần làm tổng vốn đầu tư đăng ký
trong 5 tháng tăng nhẹ 0,8% so với cùng kỳ năm 2020.
- Quy mô bình quân của các dự án cấp mới và các dự án điều chỉnh vốn đều
tăng so với cùng kỳ năm 2020 (từ 2,2
triệu USD/dự án mới trong 5 tháng năm 2020 tăng lên 14,4 triệu USD/dự án mới
trong 5 tháng năm 2021 và từ 7,9 triệu USD/lượt dự án điều chỉnh vốn lên trên 11,3
triệu USD/lượt dự án điều chỉnh vốn).
- Đầu tư theo phương thức M&A trong 5 tháng đầu năm 2021 vẫn tiếp
tục giảm theo xu hướng chung của năm 2020[1] và
chưa có sự phục hồi. Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng lớn đến thị trường M&A
trên thế giới nói chung và cả Việt Nam bởi đặc thù của M&A cần có sự tham
gia trực tiếp tìm hiểu, nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp của nhà ĐTNN. Việc
hạn chế di chuyển trong bối cảnh đại dịch đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng
quyết định đầu tư của các nhà ĐTNN. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của một số giao
dịch M&A lớn trong 5 tháng đầu năm 2020 cũng ảnh hưởng đến việc giảm giá
trị M&A trong 5 tháng đầu năm 2021[2].
Mặc dù giảm cả về số lượt M&A cũng như giá trị vốn góp, xong mức độ giảm
đang được cải thiện dần[3].
Quy mô các giao dịch M&A trong 5 tháng đầu năm 2021 cũng tăng nhẹ so với
cùng kỳ[4].
- Xuất nhập khẩu của khu vực ĐTNN vẫn tiếp tục tăng trong
5 tháng đầu năm, tuy nhiên mức độ tăng giảm nhẹ so với 4 tháng. Khu vực
ĐTNN xuất siêu 12,6 tỷ USD kể cả dầu thô, bù đắp phần nhập siêu gần 12,5 tỷ USD
của khu vực doanh nghiệp trong nước, giúp cả nước xuất siêu khoảng 131 triệu
USD.
3. Tình hình
ĐTNN luỹ kế tới 20/05/2021
Tính lũy kế đến ngày 20/05/2021, cả nước có 33.615 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký 396,86 tỷ USD. Vốn thực hiện
lũy kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 240 tỷ USD, bằng 60,5% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.
- Theo lĩnh
vực: các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế
quốc dân, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao
nhất với 232,8 tỷ USD, chiếm 58,7% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh bất động sản với
61 tỷ
USD (chiếm 15,4%
tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với 33,7 tỷ USD (chiếm 8,5% tổng vốn đầu
tư).
- Theo đối tác đầu tư: Có 140 quốc
gia, vùng lãnh thổ hiện có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn
Quốc với tổng vốn đăng ký 71,9 tỷ USD (chiếm 18,1% tổng vốn đầu tư). Nhật Bản đứng thứ hai với 63,2 tỷ USD (chiếm 15,9% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài
Loan, Hồng Kông.
- Theo địa bàn: ĐTNN đã có mặt ở
tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với trên 48,9 tỷ USD (chiếm 12,3% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Bình Dương với trên 36,6 tỷ USD (chiếm trên 9,2% tổng vốn đầu tư); Hà
Nội với gần 36,6 tỷ USD (chiếm 9,2% tổng vốn đầu tư).
(Biểu số
liệu chi tiết tại Phụ lục III kèm theo)
[1] Xu hướng
giảm của các tháng đầu năm 2020: 5 tháng giảm 60,9%; 4 tháng giảm 65,3%; 3
tháng giảm 65,6%; 2 tháng giảm 84%
[2] Trong 5
tháng đầu năm 2020, có 5 giao dịch M&A có giá trị vốn góp lên trên 100
triệu USD. Trong khi 5 tháng đầu năm 2021 không có giao dịch nào có giá trị vốn
góp trên 100 triệu USD.
[3] Giá trị
M&A 5 tháng đầu năm giảm 56,3%, giảm ít hơn so với 4 tháng đầu năm là
57,8%; 3 tháng đầu năm là 58,8%.
[4] Quy mô
bình quân các giao dịch M&A trong 5 tháng đầu năm 2021 đạt 0,92 triệu
USD/giao dịch, tăng nhẹ so với quy mô bình quân các giao dịch trong 5 tháng đầu
năm 2020 là 0,85 triệu USD/giao dịch