1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung vào chăm sóc, thu hoạch lúa mùa, lúa thu đông trên cả nước và gieo trồng cây màu vụ đông ở phía Bắc. Điều kiện thời tiết không thuận lợi đã gây ngập lụt làm một số diện tích lúa và hoa màu bị mất trắng hoặc không thể gieo trồng; nhiều gia súc, gia cầm bị chết, cuốn trôi; hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, giá cá tra trong tháng đã tăng sau 9 tháng liên tiếp ở mức thấp, giá tôm ổn định trở lại do thị trường xuất khẩu đang dần được khôi phục.
a) Nông nghiệp
Vụ lúa mùa năm 2020 cả nước gieo cấy được 1.585,2 nghìn ha, bằng 98,4% vụ mùa năm trước. Tính đến trung tuần tháng Mười, cả nước thu hoạch được 990,7 nghìn ha, chiếm 62,5% diện tích gieo cấy và bằng 97,2% cùng kỳ năm trước. Năng suất lúa mùa năm nay đạt 50,7 tạ/ha, tăng 0,3 tạ/ha so với năm trước; sản lượng ước tính đạt 8,04 triệu tấn, giảm 59,5 nghìn tấn so với vụ mùa trước.
Cùng với chăm sóc và thu hoạch lúa mùa, các địa phương trên cả nước đã cơ bản kết thúc sản xuất lúa hè thu với diện tích gieo trồng đạt 1.944,8 nghìn ha, giảm 64,8 nghìn ha so với vụ hè thu năm 2019. Tính đến giữa tháng Mười, cả nước đã thu hoạch được 1.920,4 nghìn ha, bằng 96,5% so với cùng kỳ năm trước; năng suất ước tính đạt 55,7 tạ/ha, tăng 0,9 tạ/ha; sản lượng đạt 10,83 triệu tấn, giảm 119,3 nghìn tấn.
Đến giữa tháng Mười, vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo cấy được 684,9 nghìn ha lúa thu đông, bằng 95,9% cùng kỳ năm trước. Toàn vùng đã thu hoạch 283,7 nghìn ha, chiếm 41,4% diện tích gieo cấy và bằng 103,2% cùng kỳ năm trước; năng suất ước tính đạt 52,2 tạ/hạ, tăng 0,4 tạ/ha.
Tính đến thời điểm 15/10/2020, cả nước gieo trồng được 66,5 nghìn ha ngô, bằng 91,5% cùng kỳ năm trước; 10,8 nghìn ha khoai lang, bằng 92,3%; 2,5 nghìn ha đậu tương, bằng 59,5%; 4 nghìn ha lạc, bằng 83,3%; 78,9 nghìn ha rau, đậu, tương đương cùng kỳ năm trước.
Chăn nuôi lợn đang dần được khôi phục, tổng số lợn trong tháng tăng 7,6% so với cùng thời điểm năm trước; tổng số bò tăng 2,5%; tổng số gia cầm tăng 4,3%; tổng số trâu giảm 2%. Tính đến ngày 25/10/2020, một số loại dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn ở các địa phương: dịch tai xanh còn ở Hà Nam; dịch cúm gia cầm còn ở Thái Bình; dịch lở mồm long móng ở Quảng Nam, Kon Tum; dịch tả lợn châu Phi còn ở 377 xã của 31 địa phương.
b) Lâm nghiệp
Trong tháng Mười, diện tích rừng trồng mới tập trung của cả nước ước tính đạt 28,6 nghìn ha, giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 198,1 nghìn ha, giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 79,2 triệu cây, giảm 1,2%; sản lượng gỗ khai thác đạt gần 13,5 triệu m3, tăng 1,4%; sản lượng củi khai thác đạt 15,8 triệu ste, giảm 0,5%.
Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng Mười là 66,1 ha, giảm 45,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 7,3 ha, giảm 90,9%; diện tích rừng bị chặt, phá là 58,8 ha, tăng 42,4%. Tính chung 10 tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 1.357,1 ha, giảm 59,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 611 ha, giảm 78,6%; diện tích rừng bị chặt, phá là 746,1 ha, tăng 44,9%.
c) Thủy sản
Sản lượng thủy sản cả nước tháng 10/2020 ước tính đạt 786,9 nghìn tấn, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 476,1 nghìn tấn, giảm 1,6%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 310,8 nghìn tấn, giảm 0,3%. Tính chung 10 tháng năm 2020, sản lượng thủy sản ước tính đạt 6.914,6 nghìn tấn, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 3.690,2 nghìn tấn, tăng 0,9%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 3.224,4 nghìn tấn, tăng 1,7% (sản lượng khai thác biển đạt 3.067,2 nghìn tấn, tăng 1,8%).
2. Sản xuất công nghiệp
Trước tình hình dịch Covid-19 được kiểm soát tốt, các lĩnh vực của nền kinh tế đang bước vào trạng thái hoạt động trong điều kiện bình thường mới, sản xuất công nghiệp tháng 10/2020 tiếp tục khởi sắc[1], đặc biệt là ngành chế biến, chế tạo với mức tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 10/2020 ước tính tăng 3,6% so với tháng trước và tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm mạnh 14,5%; ngành chế biến, chế tạo tăng 8,3%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 1%; ngành cung cấp nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 10 tháng năm 2020, IIP ước tính tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng 9,5% của cùng kỳ năm 2019. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 4,2% (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,8%), đóng góp 3,6 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,2%, đóng góp 0,3 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,1%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 8,1%, làm giảm 1,3 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Tình hình đăng ký doanh nghiệp tháng 10/2020 khởi sắc so với tháng trước. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong tháng 10/2020 tăng 18,4% so với tháng 9/2020, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 10,4%. Tính chung 10 tháng năm 2020, cả nước có gần 111,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 2,9% so với cùng kỳ năm trước, quy mô vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 14,3 tỷ đồng, tăng 14,4%.
Trong tháng 10/2020, cả nước có 12,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 165,6 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký là 72,4 nghìn lao động, tăng 18,4% về số doanh nghiệp, giảm 18,5% về vốn đăng ký và giảm 12,7% về số lao động so với tháng trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 13,6 tỷ đồng, giảm 31,2% so với tháng trước và tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2019. Trong tháng, cả nước còn có 5.044 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 10,4% so với tháng trước và giảm 30,4% so với cùng kỳ năm 2019; có 3.293 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 0,7% và tăng 57,9%; có 3.579 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 12,6% và giảm 28,6%; có 1.413 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 18,6% và tăng 0,2%.
Tính chung 10 tháng, cả nước có gần 111,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.594,1 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 850,3 nghìn lao động, giảm 2,9% về số doanh nghiệp, tăng 11,1% về vốn đăng ký và giảm 17% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 10 tháng đạt 14,3 tỷ đồng, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 2.298 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 32,6 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 10 tháng năm nay là 3.892,1 nghìn tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có 37,7 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 8,2% so với 10 tháng năm 2019, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 10 tháng lên 148,9 nghìn doanh nghiệp, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước. Trung bình mỗi tháng có gần 14,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Trong 10 tháng có gần 85,6 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: 41,8 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 58,7%; gần 30,3 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 12,4%; 13,5 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 0,1%. Trung bình mỗi tháng có 8,6 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
4. Đầu tư
Các Bộ, ngành và địa phương đang nỗ lực tập trung thực hiện những giải pháp đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, tuy nhiên tình hình mưa bão ở miền Trung trong tháng Mười đã gây ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các dự án, công trình. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Mười ước tính đạt 10,25% so với kế hoạch năm 2020, tăng không đáng kể so với mức 10,15% của tháng Chín. So với cùng kỳ năm trước, tốc độ tăng vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Mười và 10 tháng năm nay tiếp tục đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2016-2020.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 10/2020 ước tính đạt 52 nghìn tỷ đồng, tăng 42,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng năm 2020, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 354,6 nghìn tỷ đồng, bằng 69,8% kế hoạch năm và tăng 34,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 bằng 68,8% và tăng 6,7%), cụ thể: Vốn Trung ương quản lý đạt 62,1 nghìn tỷ đồng, bằng 67,7% kế hoạch năm và tăng 67,8% so với cùng kỳ năm trước; vốn địa phương quản lý đạt 292,5 nghìn tỷ đồng, bằng 70,3% kế hoạch năm và tăng 29%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/10/2020 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 23,5 tỷ USD, giảm 19,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 2.100 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 11,7 tỷ USD, giảm 32,1% về số dự án và giảm 9,1% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 907 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 5,7 tỷ USD, tăng 4,4%; có 5.451 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn đạt 6,1 tỷ USD, giảm 43,5%. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 1.392 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp gần 2,5 tỷ USD và 4.059 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị hơn 3,6 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 10 tháng ước tính đạt 15,8 tỷ USD, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm trước.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 10 tháng năm 2020 có 107 dự án được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới với tổng số vốn đầu tư của phía Việt Nam là 314,5 triệu USD; có 28 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm đạt 163,8 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) 10 tháng đạt 478,3 triệu USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước.