BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
CỤC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Thứ Hai, 25/11/2024
Quốc gia
Môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong lĩnh vực Nông nghiệp
Thứ Hai, 15/09/2014 10:24
Môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong lĩnh vực Nông nghiệp

Chìa khóa để phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam là hợp tác quốc tế, trong đó có việc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp.

 Là một nước nông nghiệp đang trong quá trình công nghiệp hóa, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương ưu tiên đầu tư cho phát triển nông, lâm ngư nghiệp, Tuy nhiên, đầu tư vào lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp trong bối cảnh hạ tầng nông thôn yếu kém, nguồn vốn hạn chế, nên thực tế so với các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, tỷ trọng thu hút vốn đầu tư từ mọi nguồn lực còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng và ý nghĩa quan trọng của lĩnh vực này trong nền kinh tế, chưa tạo được bước phát triển nhanh trong sản xuất hàng hóa với chất lượng cao như mong muốn. Để khắc phục tình trạng trên, bên cạnh mục tiêu huy động vốn đầu tư, còn cần phải tìm kiếm công nghệ sinh học, công nghệ kỹ thuật, công nghệ quản lý… tiên tiến áp dụng vào lĩnh vực này, cải thiện kết cấu kinh tế, hạ tầng kỹ thuật nông thôn, miền núi, và cần có đội ngũ cán bộ giỏi, đội ngũ lao động lành nghề, có kỹ năng kinh doanh thành thạo. Chìa khóa để mở rộng một trong những cánh cửa giải quyết các vấn đề trên là hợp tác quốc tế, trong đó có việc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp.

 I. Thực trạng thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp.

 Tính đến tháng 8/2014 có 512 dự án FDI trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 3,4 tỷ USD, chiếm 3,03% tổng số dự án và 1,4% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đứng thứ 10 trong số 18 ngành kinh tế đã có đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

 Trong những năm đầu, nguồn vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu hướng vào lĩnh vực chế biến gỗ và các loại lâm sản, sau những năm 2000, nguồn vốn ĐTNN được thu hút khá đồng đều vào lĩnh vực trồng trọt, lâm sản, mía đường, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng rừng, sản xuất nguyên liệu giấy. Đa số các nhà đầu tư chú trọng vào việc lựa chọn địa bàn đầu tư là vùng nguyên liệu truyền thống, phù hợp và thuận lợi về thổ nhưỡng, khí hậu cho việc phát triển nguồn nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy. Phần lớn các ngành trong lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp không thuộc danh mục đầu tư có điều kiện nên có đến ¾ số dự án là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, hình thức này phù hợp với yêu cầu điều hành hoạt động của doanh nghiệp cũng như về độ rủi ro cao của lĩnh vực này. Nguồn vốn ĐTNN đầu tư vào lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp theo 4 hình thức là: hình thức 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, liên doanh, công ty cổ phần và hợp đồng hợp tác kinh doanh trong đó hình thức 100% vốn đầu tư chiếm đa số với 390 dự án với tổng vốn đăng ký trên 2,5 tỷ USD, chiếm 76,6% số dự án và 73,9% tổng vốn đăng ký.

 Trong thời gian qua ĐTNN vào nông nghiệp đã bước đầu đạt được một số thành tựu đáng khích lệ. Các dự án ĐTNN đã đem vào Việt Nam nhiều thiết bị, công nghệ tiên tiến, nhiều giống cây, giống con có năng suất và chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhiều dự án đã là những mô hình làm ăn kiểu mới có hiệu quả cao để nông dân và các doanh nghiệp Việt Nam noi theo. Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã tạo thêm việc làm cho hàng chục ngàn lao động nông nghiệp và hàng chục vạn lao động sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và nhiều loại hình dịch vụ khác. Sản phẩn của doanh nghiệp có vốn ĐTNN được tiếp thị ở thị trường quốc tế một cách khá thuận lợi; đã góp phần đáng kể trong việc giới thiệu nông sản hàng hóa của Việt Nam trên thị trường thế giới tạo điều kiện cho nông sản Việt Nam thâm nhập thị trường, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu chung của nghành.

 Tuy nhiên, đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam vẫn còn rất nhiều khó khăn, hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như nhu cầu thu hút FDI của Việt Nam vào lĩnh vực này. Các hạn chế đó thể hiện ở các điểm sau đây:

 Thứ nhất, tỷ trọng vốn FDI trong nông nghiệp là rất thấp trong cơ cấu ngành kinh tế và có xu hướng ngày càng giảm. Cả nước hiện có 16.910 dự án đầu tư nước ngoài (FDI) được cấp phép đầu tư với tổng vốn 243 tỷ USD trong đó lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chỉ có 509 dự án với tổng số vốn đăng ký đạt 3,39 tỷ USD, chỉ chiếm 3,03% tổng số dự án và 1,4% tổng vốn đăng ký. Bình quân hàng năm, toàn nghành thu hút được khoảng 20 dự án và 130 triệu USD mỗi năm. Thực tế, nhịp độ thu hút vốn ĐTNN vào lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp đã đạt mức cao giai đoạn 1991 đến 2000, tuy nhiên, giai đoạn gần đây, thu hút ĐTNN vào lĩnh vực này đã giảm mạnh. Cụ thể  Nếu như cách đây 15 năm, FDI vào nông lâm ngư nghiệp chiếm 15% trong tổng vốn đầu tư FDI của cả nước thì trong 3 năm gần đây chiếm chưa đến 0,5%.

 Thứ hai, chất lượng của các dự án FDI lĩnh vực nông nghiệp chưa cao, phần lớn là các dự án quy mô nhỏ. Nếu như quy mô vốn đầu tư bình quân một dự án FDI vào khoảng 14,7 triệu USD thì một dự án FDI nông nghiệp chỉ đạt 6,6 triệu USD.

 Thứ ba, phân bổ vốn FDI trong nông nghiệp cũng không đồng đều. Các dự án FDI tập trung chủ yếu ở các dự án thu hồi vốn nhanh như chăn nuôi, chế biến thức ăn chăn nuôi, trồng rừng, chế biến gỗ và lâm sản, thủy sản. Trồng rừng và chế biến gỗ chiếm khoảng 78% tổng vốn FDI vào nông nghiệp; trong khi các ngành chế biến nông sản, thủy sản còn rất khiêm tốn.

Thứ tư, các dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp cũng chủ yếu đến từ các nhà đầu tư của khu vực Châu Á có nền công nghệ chưa thực sự phát triển cao như Thái Lan, Đài Loan, Indonesia… các nước phát triển cao như Mỹ, Nhật Bản, EU… còn ít.

 Trong chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN), Lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp chế biến nông, lâm thủy hải sản và phát triển nông thôn luôn được coi là lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Vì vậy, hơn 25 năm qua,

 II. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế.

 1. Nguyên nhân khách quan

Trước hết, có một thực tế là đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hoạt động này thường diễn ra ở các vùng nông thôn rộng lớn, điều kiện tự nhiên khó khăn, lệ thuộc nhiều vào thời tiết, sản phẩm mang tính mùa vụ, dễ hư hỏng, thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh… Sản phẩm nông nghiệp thường có tỉ suất lợi nhuận thấp, mức thu nhập không cao. Trong điều kiện thời tiết Việt Nam luôn thay đổi thất thường, thiên tai thường xuyên xảy ra thì rủi ro do thiên nhiên mang lại trong lĩnh vực này càng cao.

 Thứ hai, sản xuất nông nghiệp Việt Nam chủ yếu là quy mô nhỏ, phân tán, thiếu tính liên kết, phối hợp và không chuyênnghiệp, chưa tạo ra sức thu hút đầu tư của các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp FDI. Các vùng sản xuất chưa được chuyên môn hóa với kết cấu hạ tầng đồng bộ; cơ cấu sản xuất chưa ổn định, thiếu tầm nhìn dài hạn

Thứ ba, kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật ở nông thôn hiện nay rất kém, muốn “đến” với nông dân, các doanh nghiệp buộc phải đầu tư thêm nhiều hạng mục ngoài công trình, chi phí lớn. Nhất là đối với ngành lâm nghiệp, do chủ yếu phát triển tại các vùng, miền địa hình đồi núi, giao thông vận tải khó khăn khiến nhiều doanh nghiệp FDI e ngại. Bên cạnh đó, số lượng người lao động có tay nghề, được đào tạo bài bản về lĩnh vực nông nghiệp hiện nay còn rất thấp, hơn nữa, hệ thống sản xuất, tiêu thụ hàng nông sản còn bất cập, chúng ta chưa thiết lập được mối quan hệ giữa các hộ nông dân với các doanh nghiệp, chưa phát huy hết vai trò của các hiệp hội theo ngành hàng.

 2. Nguyên nhân chủ quan

Bên cạnh các nguyên nhân khách quan, việc thu hút FDI đạt hiệu quả thấp còn xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan dưới đây.

 Trước hết, chưa có chiến lược, định hướng rõ ràng, phù hợp để thu hút FDI vào nông nghiệp. Cho đến nay ngành nông nghiệp vẫn thiếu một chiến lược, định hướng dài hạn thu hút vốn FDI vào nông nghiệp-nông thôn một cách rõ ràng nhằm xác định vị trí của nguồn vốn FDI đối với nhu cầu đầu tư phát triển của ngành nông nghiệp, những dự án cụ thể cần ưu tiên đầu tư nhằm thu hút các nhà đầu tư có tiềm năng mạnh về nông nghiệp như Hoa Kỳ, Canada, Australia và châu Âu. Bản thân ngành nông nghiệp cũng chưa có cơ chế chọn lựa, đề xuất các dự án FDI ưu tiên trong ngành; danh mục dự án gọi vốn chưa bao quát hết nhu cầu; thông tin về từng dự án còn sơ lược, thiếu chuẩn xác.

 Thứ hai, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đối với các nhà đầu tư FDI trong nông nghiệp thiếu rõ ràng và minh bạch: Các quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục đầu tư và tổ chức hoạt động của các dự án FDI trong nông nghiệp chưa tính hết những đặc thù như: chứa đựng nhiều rủi ro trong KD; khả năng tiên lượng về thị trường khó khăn; các mối quan hệ giữa các tác nhân trong triển khai dự án phức tạp hơn so với dự án FDI trong công nghiệp, xây dựng và thương mại…

 Thứ ba, các cơ chế, chính sách về ưu đãi, hỗ trợ cho dự án nông nghiệp vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu và công tác thực thi còn nhiều vấn đề bất cập. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; tuy nhiên việc triển khai Nghị định này vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc do vẫn còn thiếu các thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành.

 Thứ tư, quy hoạch vùng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến còn yếu, thiếu. Vùng nguyên liệu được xem là yếu tố sống còn với doanh nghiệp chế biến và vì vậy doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này cần sử dụng nhiều đất đai để xây dựng vùng nguyên liệu. Tuy nhiên trên thực tế, tại các địa phương, đất đai đã được giao hết cho các hộ nông dân với quy mô sản xuất manh mún, đầu tư phân tán, nhỏ lẻ, chạy theo thị trường khiến các cơ sở chế biến nông sản FDI luôn bị động về nguồn nguyên liệu.

 Thứ năm, tổ chức sản xuất, thu mua, chế biến và tiêu thụ nông sản ở Việt Nam còn nhiều vấn đề mâu thuẫn, phức tạp khó xử lý. Tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu về nguyên liệu cho chế biến nông sản diễn ra phổ biến, liên tục và ngày càng nan giải. Tình trạng nông dân không gắn hoạt động sản xuất nông sản nguyên liệu của họ với hoạt động thu mua, chế biến của các doanh nghiệp đang đẩy tới tình trạng tranh chấp trong mua – bán nguyên liệu vừa đẩy giá nguyên liệu lúc lên cao, lúc xuống thấp diễn ra phổ biến gây bất lợi cho cả người nông dân sản xuất, các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ và cả lĩnh vực nông nghiệp nói chung. Phần lớn nông sản (tới 90%) được tiêu thụ ở dạng tươi sống và chế biến thô, giá trị gia tăng thấp và không có thương hiệu, nguồn gốc Việt Nam.

 III. Giải pháp

  Để ngành nông nghiệp không 'đứng ngoài' trong làn sóng FDI đổ bộ vào Việt Nam, cần tập trung thực hiện một số nhóm giải pháp sau đây:

 1. Về hỗ trợ, ưu đãi các dự án FDI trong nông nghiệp.

- Tiếp tục duy trì và mở rộng các ưu đãi, hỗ trợ hiện hành đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nhưng cần loại bỏ các tiêu chí về khuyến khích xuất khẩu và ưu tiên sử dụng nguyên liệu trong nước.

- Tăng cường các biện pháp hỗ trợ như: cho nông dân vay vốn ưu đãi để đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu nông sản phục vụ công nghiệp chế biến; hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản…

- Tiếp tục áp dụng biện pháp ưu đãi thuế thu nhập đối với các dự án đầu tư ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất các loại giống mới, dự án phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp.

- Hướng dẫn kênh hỗ trợ vốn tín dụng ngân hàng cho các dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp từ Ngân hàng phát triển để tạo nguồn vốn bổ sung cho các doanh nghiệp FDI đang triển khai một số dự án đầu tư tạo giống, sản xuất sản phẩm xuất khẩu…

- Áp dụng cơ chế bảo lãnh, thế chấp để doanh nghiệp FDI có dự án đầu tư vào lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư được tiếp cận thuận lợi.

- Có chính sách trợ cấp cho nông dân và các doanh nghiệp nông nghiệp khi bị tổn thất vì thiên tai, bị rủi ro về biến động giá thị trường nông sản.

 2. Về công tác quy hoạch

- Nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành, từng sản phẩm theo hướng gắn kết với mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển đặt ra trong Kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2015-2020 định hướng 2030 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng như định hướng thu hút, sử dụng vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN). Căn cứ các quy hoạch nói trên, các ngành, địa phương cần xây dựng các Danh mục dự án ưu tiên gọi vốn ĐTNN với các thông tin cụ thể về mục tiêu, địa điểm, công suất và đối tác Việt Nam để làm cơ sở cho việc tổ chức các chương trình vận động đầu tư.

- Chính quyền địa phương chủ động quy hoạch vùng nguyên liệu nông sản cho nhà đầu tư gắn với các hình thức chuyển giao quyền sử dụng đất từ nông dân sang nhà đầu tư. Bố trí vốn ngân sách hoặc các nguồn vay ODA của Việt Nam để đầu tư giải phóng mặt bằng tại các vùng dự án triển khai.

 3. Về đất đai, mặt nước.   

- Mở rộng và đảm bảo quyền lợi của người nông dân trong việc chuyển giao quyền sử dụng đất cho nhà đầu tư, đi đôi với đảm bảo khả năng sử dụng đất ổn định theo quy hoạch của nhà đầu tư. Áp dụng hình thức kết hợp giữa nhà đầu tư và nông dân để đầu tư triển khai dự án: người nông dân góp đất đai và sức lao động, nhà đầu tư bỏ vốn và công nghệ.

- Từng địa phương tiến hành quy hoạch lại việc sử dụng các loại đất của các dự án FDI trong nông nghiệp và xác định kế hoạch sử dụng đất lâu dài cho từng dự án.

 4. Về phát triển vùng nguyên liệu.

- Ngân sách nhà nước hỗ trợ vốn dưới hình thức cho nhà đầu tư FDI vay để xây dựng các hạng kết cấu hạ tầng cứng và mềm cần thiết và sử dụng lâu dài tại vùng nguyên liệu.

- Cung cấp tín dụng ưu đãi cho nông dân và doanh nghiệp để đầu tư trực tiếp vào cây trồng để tạo vùng nguyên liệu đáp ứng yêu cầu kinh doanh có hiệu quả.

- Chính quyền tỉnh và các huyện có vùng nguyên liệu của dự án FDI có trách nhiệm bảo vệ và duy trì các vùng nguyên liệu đã quy hoạch cho dự án FDI để đảm bảo cung cấp đầy đủ nguyên liệu tập trung cho nhà đầu tư.

- Xác định quyền và trách nhiệm cho nhà đầu tư trong việc đưa ra các biện pháp bảo vệ vùng nguyên liệu của họ.

 5. Về phát triển nguồn nhân lực trong nông nghiệp.

- Nhà nước cần có chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhiều mặt cho lực lượng lao động làm việc cho các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp.

- Phát triển hệ thống đào tạo nghề ở nông thôn, hệ thống khuyến nông, chuyển giao kỹ thuật, kiến thức kinh tế và kiến thức về thị trường cho người lao động tại chỗ, trong đó có lao động làm việc cho FDI.

- Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể địa phương trong việc hỗ trợ các nhà đầu tư FDI tiếp cận người dân, gia đình những người làm việc cho FDI để tạo sự hiểu biết, chia sẻ và hiểu biết lẫn nhau, qua đó phát triển nguồn nhân lực địa phương nói chung và nguồn nhân lực làm việc cho FDI.

 6. Về công tác Xúc tiến đầu tư

- Tăng cường, nâng cao hiệu quả vận động, xúc tiến FDI. Ngành nông nghiệp cần phát triển một hệ thống quản lý và xúc tiến FDI đối với các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam cũng như các nước vùng lãnh thổ có tiềm năng đầu tư vào nông nghiệp, quảng bá hình ảnh nông nghiệp Việt trong mắt bạn bè thế giới.

- Cần coi việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai có hiệu quả các dự án ĐTNN đã được cấp Giấy phép đầu tư (xúc tiến đầu tư tại chỗ) là một biện pháp tốt nhất để để xây dựng hình ảnh, nâng cao sự hiểu biết của nhà đầu tư nước ngoài về sức hấp dẫn và cạnh tranh của ĐTNN trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp cũng cần chủ động nâng cao năng lực hoạt động của mình, tích cực tham gia chương trình xúc tiến đầu tư của ngành, chú trọng xây dựng và quảng bá thương hiệu. Những giải pháp này cần được thực hiện thường xuyên, liên tục và cần đặt trong tổng thể chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung.

 

 


Số lượt đọc: 5982
Thông báo