Các mô hình FDI như vậy cũng cần được kiểm tra theo thời gian, vì các yếu tố có lợi cho đầu tư ban đầu của MNE vào một quốc gia có thể thay đổi, khiến nó chuyển các khoản đầu tư mới sang nơi khác. Một số cân nhắc chiến lược có thể thúc đẩy sự thay đổi như vậy, chẳng hạn như cường độ cạnh tranh tăng lên tại địa điểm ban đầu, các yêu cầu cắt giảm chi phí thúc đẩy việc tìm kiếm các địa điểm sản xuất mới với chi phí thấp hoặc áp lực gia nhập thị trường mới trước những động thái tương tự của các đối thủ.
Các biện pháp do các chính phủ thực hiện trong việc tự do hóa chế độ đầu tư cũng ảnh hưởng sâu sắc đến các quyết định về FDI. Do đó, xu hướng FDI là một hiện tượng phức tạp, đa chiều, cần được xem xét từ quan điểm kinh tế vĩ mô cũng như chiến lược doanh nghiệp để có phân tích thực tế hơn.
Nhiều cuộc khảo sát và nghiên cứu, chẳng hạn như của Liên Hợp quốc, thường xuyên công bố dữ liệu tổng hợp về FDI theo quốc gia. Những điều này thường cho thấy sự gia tăng đáng kể của FDI vào một khu vực cụ thể, đồng thời với sự giảm tốc đầu tư vào các điểm đến phổ biến khác, cho thấy sự thay đổi của các yếu tố quyết định FDI. Nghiên cứu này nhằm cung cấp cơ sở lý luận cho xu hướng thay đổi của dòng vốn FDI cũng như phân tích sức hấp dẫn của thị trường châu Á trong việc thu hút FDI.
1. Tổng quan tài liệu
Lý thuyết về sự luân chuyển vốn là giải thích sớm nhất cho FDI, vốn được xem như là một phần của các khoản đầu tư theo danh mục đầu tư. Đóng góp mang tính đột phá của Hymer’s (1960) là lời giải thích đầu tiên về FDI trong truyền thống tổ chức công nghiệp. Hymer coi FDI như một phương tiện chuyển giao kiến thức và các tài sản doanh nghiệp khác để tổ chức sản xuất ở nước ngoài. Không giống như các khoản đầu tư theo danh mục đầu tư, việc chuyển nhượng như vậy không liên quan đến quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát bị từ bỏ.
Theo cách tương tự, Vernon (1966) đã sử dụng khái niệm chu kỳ sống của sản phẩm để đưa ra giả thuyết rằng các công ty chuyển các công nghệ sản xuất được tiêu chuẩn hóa và đã bão hòa tại thị trường trong nước ra nước ngoài. Hai mảng cơ bản này đã tạo ra nhiều đóng góp để giải thích các hoạt động FDI và MNE từ các cơ sở lý thuyết khác nhau.
Trong khi, Caves (1971) và Dunning (1958) coi FDI là một cách để khai thác lợi thế về quyền sở hữu, Rugman (1979) lại coi đây là sự đa dạng hóa rủi ro và là tài sản tổ chức và chuyển giao kiến thức của Kogut (1983). Hơn nữa, trong khi Buckley và Casson (1976) và Hennart (1982) giải thích logic cho việc nội bộ hóa các giao dịch trong MNE, Knickerbocker (1973) cho rằng các MNE thể hiện hiệu ứng vòng tròn khi họ theo chân các đối thủ của mình vào các thị trường mới như một phản ứng chiến lược đối với sự cạnh tranh độc quyền.
Mô hình chiết trung (Dunning, 1980, 1993) cung cấp một khuôn khổ dựa trên lợi thế về quyền sở hữu, vị trí và nội bộ (OLI) để phân tích tại sao và ở đâu, các MNE sẽ đầu tư ra nước ngoài. Những hình thức đầu tư như vậy có thể là: tìm kiếm tài nguyên (tự nhiên), tìm kiếm thị trường, tìm kiếm hiệu quả hoặc tìm kiếm tài sản chiến lược. Mô hình Upsaala (Johanson và Vahlne, 1977) cho rằng, các MNE tham gia tăng dần vào FDI. Ban đầu họ chỉ đầu tư nhỏ vào các quốc gia gần nhau về mặt địa lý và văn hóa, nhưng sau đó, khi kinh nghiệm tích lũy được nhiều hơn, các khoản đầu tư lớn hơn được thực hiện vào các quốc gia xa nhau về cả 2 mặt trên.
Những phát triển lý thuyết tiếp theo giải thích sự phát triển năng động của lợi thế sở hữu và cách các MNE chuyển chúng thông qua FDI. Chúng bao gồm cách tiếp cận dựa trên nguồn lực (Conner, 1991; Wernerfelt, 1984), quan điểm tiến hóa (Nelson và Winter, 1982; Teece và cộng sự, 1997) và cách tiếp cận quản lý tổ chức của Prahalad và Doz (1987), Bartlett và Ghoshal (1989) và Sethi và Guisinger (2002). Động lực chính của những lý thuyết này là kiến thức và kỹ năng của một công ty tạo thành lợi thế sở hữu ngầm. Các MNE, với khả năng thiết lập và quản lý các cơ cấu tổ chức phức tạp, duy trì những lợi thế này bằng cách tận dụng chúng thông qua các khoản đầu tư trên toàn thế giới.
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã tập trung vào các yếu tố quyết định FDI, dựa trên lợi thế sở hữu. Mối quan hệ đáng kể đã được tìm thấy giữa FDI và công nghệ (Lall, 1980), quy mô doanh nghiệp (Li và Guisinger, 1992), quy mô vốn (Pugel, 1981) và sự khác biệt của sản phẩm (Caves, 1971). Những nghiên cứu này tuy nhiên chỉ cung cấp cơ sở lý luận và một mô thức tổng quát cho FDI mà không giải thích sự khác biệt giữa các khu vực.
OLI cho thấy quy mô thị trường, tăng trưởng thị trường, các rào cản đối với thương mại, tiền lương, sản xuất, giao thông và các chi phí khác, ổn định chính trị, các quy định về thuế và thương mại của chính phủ đã ảnh hưởng đến các quyết định về địa điểm (Dunning, 1993). Tuy nhiên, không có nghiên cứu nào nghiên cứu đồng thời tất cả các yếu tố ảnh hưởng trên. Phương pháp luận và trọng tâm của các nghiên cứu này cũng khác nhau đáng kể. Trong khi Root và Ahmed (1978) điều tra về thuế và các chính sách của chính phủ, sử dụng thuế suất doanh nghiệp theo luật định làm đại diện cho tác động của các chính sách tài khóa đối với các nhà đầu tư mới, Nigh (1985) nhấn mạnh tác động tích cực của sự ổn định chính trị và Contractor (1991) đã điều tra tác động của các chính sách của chính phủ đối với việc lựa chọn địa điểm FDI.
Sử dụng Khảo sát điểm chuẩn của Bộ Thương mại Hoa Kỳ năm 1977 và 1982, Loree và Guisinger (1995) đã kiểm tra tác động của các biến chính sách và phi chính sách đối với vị trí. Họ tìm thấy những tác động tích cực đáng kể đối với các nguồn đầu tư và những tác động tiêu cực đối với các yêu cầu về hiệu quả hoạt động và thuế suất của nước sở tại. Các biến số phi chính sách, cụ thể là ổn định chính trị, khoảng cách văn hóa, GDP bình quân đầu người và cơ sở hạ tầng, cũng ảnh hưởng rất đáng kể.
Hầu hết các nghiên cứu này phù hợp hơn với việc gia nhập thị trường ban đầu và không phân tích các xu hướng FDI một cách linh hoạt. Tuy nhiên, nghiên cứu về con đường phát triển đầu tư có yếu tố theo chiều dọc (Dunning, 1981, 1986; Ozawa, 1992; Narula, 1996; Tolentino, 1992; Dunning và Narula, 1996). Quan điểm này cho thấy loại hình FDI thay đổi như thế nào theo giai đoạn phát triển kinh tế của nước chủ nhà. Theo đó, các nước kém phát triển hơn thu hút phần lớn vốn FDI tìm kiếm nguồn lực và hiệu quả vào các thị trường sản phẩm hoặc các nhiệm vụ sản xuất sử dụng nhiều lao động. Khi các nước này phát triển và cải thiện nền kinh tế, cơ sở hạ tầng công nghệ và kỹ năng kỹ thuật của lực lượng lao động, họ sẽ thu hút FDI vào các hoạt động có giá trị gia tăng lớn hơn.
2. Các yếu tố làm thay đổi xu hướng FDI vào châu Á
2.1. Vị trí đầu tư
Mô hình chiết trung của Dunning nói chung là một MNE đầu tư vào vị trí thuận lợi nhất. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét các quyết định về vị trí của các MNE khác nhau thì “vị trí” có thể có nội hàm khu vực rộng hơn. Các MNE thường đánh giá các điểm đến có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiềm năng trên cơ sở khu vực, thay vì một quốc gia. Các quốc gia tiếp giáp địa lý thường có nền văn hóa, hệ thống chính trị, kinh tế và trình độ phát triển tương tự. Các quốc gia như vậy thường tạo thành một nhóm kinh tế khu vực, với sự đồng nhất đáng kể trong các chính sách thương mại và đầu tư của họ.
Hoạt động trong các thị trường thống nhất như vậy mang lại nhiều lợi ích tích lũy cho các MNE với cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc chung, thương mại nội khối không có rào cản và các cơ hội kết nối. FDI vào Tây Âu (EU), Đông Á (ASEAN), Nam Á (SAARC), Đông Âu, Mỹ Latinh (ví dụ: MERCOSUR) và châu Phi (PTA),... cũng theo cùng một mô hình khu vực trong việc khai thác lợi thế kinh tế, hội nhập đã nêu ở trên và tận dụng sự phân công lao động quốc tế.
Báo cáo “Xu hướng FDI Nhật Bản tại các nước Đông Nam Á” của GS. Yasuhiro Yamada, Đại diện Viện Nghiên cứu Hội nhập Đông Á (ASEAN - Japan) chỉ ra rằng, Đông Nam Á là khu vực dẫn đầu thế giới về tăng trưởng kinh tế bền vững trong 3 thập kỷ qua nhờ những cải cách mạnh mẽ về môi trường kinh doanh cũng như hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Bằng chứng cụ thể với Việt Nam là thu nhập bình quân đầu người từ 1.120 USD năm 2009 đã lên mức 1.990 USD năm 2015. Mức thu nhập này được đánh giá là ở ngưỡng các nước trung lưu và trong tương lai sẽ là nước có mức thu nhập trung bình đầu người cao tầm 12.745 USD. Trong tương lai, các nước trong khu vực ASEAN, đặc biệt là Việt Nam sẽ trở thành địa điểm hấp dẫn của các nhà đầu tư trên thế giới nhờ có yếu tố tích cực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như những cải thiện đổi mới và phát triển của môi trường kinh doanh.
Bằng các nghiên cứu điển hình trong đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản - Các nghiên cứu về các nhà bán lẻ Nhật Bản đối với thị trường châu Á”, PGS. Atsuji Ohara - Đại học Nagasaki (Nhật Bản) chỉ ra rằng, châu Á là thị trường tiềm năng thu hút các nhà đầu tư Nhật Bản bằng mạng lưới khách hàng mới, đặc biệt là tầng lớp trung lưu ở các thị trường mới nổi - nơi mà các nhà đầu tư có thể tận dụng nguồn vốn của mình mở rộng thương hiệu và mô hình kinh doanh. Các nhà bán lẻ Nhật Bản đang mở rộng FDI từ thị trường Trung Quốc sang các nước Đông Nam Á bằng chiến lược đa dạng hóa hơn là chỉ tập trung vào thị trường Trung Quốc.
2.2. Áp lực giảm chi phí
Kể từ cuối những năm 1980, MNES cũng đã đầu tư lớn vào Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia, những thị trường khổng lồ. Các nước này theo truyền thống đã có hàng rào thuế quan cao để ngăn chặn sự xâm nhập của hàng hóa nước ngoài. Chính phủ của họ thường chỉ thâm nhập vào các thị trường béo bở của họ khi các MNE thiết lập các cơ sở sản xuất tại địa phương.
Việc hình thành áp lực cạnh tranh gay gắt ở khu vực chủ nhà ban đầu sẽ khiến các MNE phải đầu tư tìm kiếm hiệu quả vào các quốc gia có mức lương thấp để giảm chi phí. Trên thực tế, để đối phó với sự gia tăng của áp lực cạnh tranh gay gắt ở Tây Âu, các MNE của Hoa Kỳ đã chuyển dịch cơ cấu FDI của họ vào các nước châu Á có GNP thấp (do đó là những thị trường kém hấp dẫn hơn) chủ yếu để tận dụng mức lương thấp các cấp độ. Theo nhận định của Hội nghị Liên Hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD/CNUCED), Trung Quốc, Hàn Quốc và nhất là Đông Nam Á, trở thành những địa bàn hoạt động lý tưởng. Tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới được thống kê năm 2013 đạt 1.450 tỷ USD. Vào lúc mà cả Liên hiệp châu Âu lẫn Bắc Mỹ chỉ giành được 250 tỷ USDcủa số vốn đầu tư nói trên, thì phần đổ vào châu Á là 426 tỷ USD. Châu Á chiếm đến gần 30% tổng số FDI của toàn cầu. Nhưng đứng đầu danh sách vẫn là Trung Quốc với 124 tỷ USDFDI được đổ vào Trung Quốc - không kể Hồng Kông và Đài Loan. Như vậy, chỉ một mình Trung Quốc chiếm đến 1/3 tổng đầu tư nước ngoài hướng về các nền kinh tế đang trỗi dậy của toàn châu Á.
2.3. Môi trường đầu tư tự do
Hiệu quả và đầu tư tìm kiếm thị trường của các MNE vào một khu vực sẽ phụ thuộc vào các quốc gia trong khu vực đó áp dụng các chính sách tự do hóa thân thiện với nhà đầu tư.
Các chính sách kinh tế hạn chế của hầu hết các nước đang phát triển ở châu Á, châu Mỹ Latinh và châu Phi thường xuất phát từ khuynh hướng xã hội chủ nghĩa của họ. Điều này, cùng với những lợi ích lớn hơn của việc đầu tư vào Tây Âu, đã ngăn cản mọi nguồn vốn FDI đáng kể vào châu Á. Tuy nhiên, sự thất bại liên tiếp của các nền kinh tế kế hoạch đã gây ra sự bất bình rộng rãi với các chính sách hạn chế và dần dần các chính phủ này bắt đầu mở cửa nền kinh tế của họ (UNCTAD, 1997). Trong giai đoạn 1991 - 1996, hơn 100 quốc gia đã thực hiện tổng cộng 599 thay đổi để tự do hóa các quy định về FDI, nhưng riêng trong năm 1997, 76 quốc gia đã thực hiện 151 thay đổi về tự do hóa (Liên hợp quốc, 1998).
Thay vì sự thù địch trước đó đối với các MNE, các chính phủ hiện đã thành lập các cơ quan thu hút FDI. Do đó, hai yếu tố áp lực cạnh tranh gay gắt tích tụ tại các điểm đến FDI ban đầu và tự do hóa rộng rãi đồng thời của các nền kinh tế đã tác động song song để giúp thu hút FDI tìm kiếm hiệu quả vào các nước ASEAN (UNCTAD, 1997). Động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế do FDI mang lại ở khu vực này dần dần khiến các nước đang phát triển khác cũng phải gia nhập vòng xoáy tự do hóa.
Malaisia luôn duy trì một chế độ tự do đối với đầu tư nước ngoài. Đặc biệt vào cuối thập niên 80, sau khi tiếp tục tự do hóa các chính sách đầu tư nước ngoài, đảm bảo các ưu đãi và cơ sở vật chất hấp dẫn, tăng cường các nỗ lực xúc tiến đầu tư, dòng vốn FDI đổ vào lĩnh vực sản xuất tăng đáng kể. FDI đóng góp đáng kể vào không chỉ vào sự tăng trưởng GDP, mà còn từ góc độ thay đổi cơ cấu kinh tế, chuyển Malaisia từ cơ bản là sản xuất thô sơ sang một nền kinh tế công nghiệp hóa.
Trung Quốc ban đầu thực hiện chính sách mở cửa “từ từ”, chỉ thu hút FDI vào một số vùng đặc biệt (Khu kinh tế đặc biệt - SEZ) như một cuộc thử nghiệm về áp dụng Luật Liên doanh giai đoạn 1979 - 1985. Sau thành công của 4 SEZ, chính phủ Trung Quốc tiếp tục khuyến khích FDI, thành lập 14 thành phố mở duyên hải trong năm 1984. Giai đoạn 1986 - 1991 đánh dấu sự mở cửa mạnh mẽ với việc mở ra thị trường hóa đổi ngoại tệ năm 1985, việc ban hành “Các quy định của Hội đồng Nhà nước về khuyến khích đầu tư nước ngoài” năm 1986, và “Luật về Các doanh nghiệp 100% sở hữu nước ngoài”.
Năm 1992, Trung Quốc thông báo tiếp tục chính sách đổi mới và mở cửa với mục tiêu “xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chính phủ tìm cách mở rộng chính sách khuyến khích FDI ra toàn đất nước. Giai đoạn này chứng kiến sự giao phó quyền lực từ chính quyền trung ương cho các chính quyền địa phương. Các tỉnh và thành phố được tự do xây dựng các biện pháp khuyến khích đầu tư dẫn đến kết quả hàng ngàn Khu phát triển kinh tế và công nghệ được thành lập, đầu tư và tăng lên đáng kể. Năm 1997, để đối phó với ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính châu Á, Trung Quốc quyết định ban hành chính sách tự do hóa đồng tiền nhằm nâng cao cầu nội địa, chống lạm phát và tiếp tục nỗ lực thu hút FDI. Việc gia nhập WTO đánh dấu việc từng bước mở cửa hoàn toàn nền kinh tế.
Kết quả của việc cải cách và mở cửa nền kinh tế giúp Trung Quốc trở thành điểm đến hàng đầu của thu hút FDI của thế giới, góp phần nâng cao sản lượng công nghiệp, tăng doanh thu về thuế, gia tăng xuất khẩu, tạo lượng việc làm khổng lồ và hấp thụ chuyển giao công nghệ và bí quyết kỹ thuật. Theo nghiên cứu của UNCTAD, có 400 trong số 500 công ty đa quốc gia lớn nhất đã đầu tư vào Trung Quốc.
Việt Nam cũng là một ví dụ tiêu biểu cho việc mở cửa nền kinh tế đón dòng vốn FDI. Việt Nam có mức độ mở cửa kinh tế và thương mại cao. Về thương mại, là thành viên của ASEAN, được hưởng thị trường thương mại tự do của Cộng đồng ASEAN và chuỗi hiệp định thương mại tự do "ASEAN + 1" (bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, Ấn Độ,…).
Việt Nam cũng đã tham gia CPTPP tiêu chuẩn cao và RCEP bao gồm Trung Quốc; đã ký Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU được gọi là "Hiệp định Thương mại Tự do Thế hệ mới" với EU và thuế quan đối với EU sẽ dần dần được giảm xuống 0. Chiến tranh thương mại đã khiến mức thuế quan giữa Trung Quốc và Mỹ tăng lên đáng kể, đồng thời làm nổi bật lợi thế về thuế quan thấp của Việt Nam.
Các biện pháp tự do hóa của Việt Nam không chỉ nhằm giảm chi phí thương mại, mà còn nhằm thúc đẩy cải cách trong nước, đạt được mở cửa chất lượng cao và tạo ra một chuỗi công nghiệp đa dạng và bền vững. Về đầu tư, tình hình chính trị của Việt Nam ổn định và phạm vi đầu tư được phép rộng. Theo Chỉ số hạn chế FDI năm 2019 do OECD tổng hợp, Việt Nam cởi mở hơn với đầu tư nước ngoài so với Trung Quốc chỉ đứng sau Singapore và Myanmar trong khối ASEAN.
2.4. Sự gần gũi về văn hóa
Nhiều nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra mối quan hệ văn hóa đối với nước sở tại là một yếu tố quyết định đáng kể đến FDI. Tuy nhiên, một số học giả đã lập luận rằng sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau đang quy tụ về một chuẩn mực toàn cầu và do đó ảnh hưởng của khoảng cách văn hóa có thể sẽ giảm dần. Hơn nữa, các MNE cũng có thể bị buộc phải bỏ qua khoảng cách văn hóa lớn hơn của các nước đang phát triển để ủng hộ lợi thế về mức lương thấp của họ và chọn họ là những địa điểm “tốt nhất tiếp theo”.
Ngay từ những năm 1950, Nhật Bản đã tiến hành các dự án đầu tư vào khu vực Đông Nam Á. Khối lượng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN liên tục có sự gia tăng mạnh mẽ. Từ năm 1990 đến năm 1993, FDI của Nhật Bản vào các nước này tăng từ 7,8% đến 11,33%. Đến năm 1994, tổng số vốn đầu tư này đã lên tới 5,13 tỷ USD. Trong năm 2014, con số này đã lên đến 35,57 tỷ USD, tương đương với 12,5% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản và 54% đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại châu Á. Sau thỏa thuận Plaza, đồng Yên lên giá mạnh so với đồng USDvà các đồng tiền ASEAN làm mất tính cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu. Điều này góp phần làm gia tăng xu thế chuyển dịch đầu tư của Nhật Bản sang các nước châu Á, nơi có văn hóa tương đồng và có chi phí sản xuất thấp hơn rất nhiều so với tại Nhật Bản.
Năm 2018, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Nhật Bản tại ASEAN lên tới gần 30 tỷ USD, chiếm gần 56% tổng vốn FDI của Nhật Bản tại châu Á.
Đất nước Mặt trời mọc cũng tích cực thiết lập quan hệ kinh tế chặt chẽ với ASEAN theo những cách khác. Trong vòng 6 năm, từ năm 2002 - 2008, Nhật Bản đã phê chuẩn các thỏa thuận hợp tác kinh tế với tất cả 10 quốc gia thành viên ASEAN. Nhật Bản cũng ủng hộ tăng cường hội nhập kinh tế của ASEAN thông qua hợp tác trong khuôn khổ Hành lang Kinh tế Đông - Tây, Hành lang Kinh tế phía Nam (với các quốc gia lục địa của ASEAN) và Hành lang Kinh tế ASEAN. Những hoạt động kinh tế này đã giúp tăng cường ảnh hưởng của Nhật Bản tại Đông Nam Á.
Trong một cuộc thăm dò dư luận năm 2019, có tới 93% công chúng ASEAN coi Nhật Bản như là người bạn và 87% cho rằng vai trò của Nhật Bản rất quan trọng đối với khu vực. Với những khía cạnh tích cực này, quan hệ Nhật Bản - ASEAN sẽ tiếp tục phát triển, tạo thuận lợi hơn nữa cho việc tăng cường hợp tác song phương trong tương lai.
2.5. Chu kỳ đầu tư - phát triển
FDI vào các nước có mức lương thấp cũng đã chứng kiến một hiệu ứng hỗn hợp. Vì các MNE không đủ khả năng để nhường các thị trường mới cho các đối thủ của mình, nên họ đã phải theo chân họ vào các thị trường đó. Kết quả là sự gia tăng hoạt động kinh tế đã dẫn đến mức lương tăng và các MNE có thể bắt đầu đối mặt với áp lực cạnh tranh gay gắt ngay cả trong các khu vực FDI mới. Cuối cùng, chu kỳ tìm kiếm các vị trí mới cho các khoản đầu tư tìm kiếm hiệu quả và tìm kiếm thị trường có thể được lặp lại. Những điểm đến tiềm năng trước tiên cũng cần đáp ứng các điều kiện tiên quyết như môi trường thân thiện với nhà đầu tư, sự ổn định chính trị và kinh tế và cơ sở hạ tầng tốt,...
Đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam hiện đang là đầu tư tìm kiếm hiệu quả do các doanh nghiệp vừa và nhỏ dẫn đầu. Thứ nhất, đầu tư tự phát của các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm ưu thế. Đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc vào Việt Nam chủ yếu là đầu tư tư nhân dưới 100 triệu USD, chủ yếu đến từ ngành Dệt may với nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ hai, cân nhắc chính để đầu tư vào Việt Nam là chuyển giao công nghiệp thụ động trong bối cảnh thay đổi bên trong và bên ngoài. Trước năm 2017, các công ty Mỹ chuyển đến Việt Nam chủ yếu do chi phí nhân công và đất đai ở Trung Quốc tăng cao, sau năm 2017, họ chuyển sang Việt Nam để tránh bị áp thuế cao do chiến tranh thương mại Trung - Mỹ.
Đầu tư tìm kiếm thị trường cũng có triển vọng ở Việt Nam. Theo kinh nghiệm lịch sử của Trung Quốc, Việt Nam hiện đang trong thời kỳ kinh tế phát triển và công nghiệp hóa chứa đựng những cơ hội to lớn để tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập và tăng tốc đô thị hóa. Dân số Việt Nam gần 100 triệu người và tổng thị trường tiêu dùng rất lớn; GDP bình quân đầu người tương đương với mức năm 2006 của Trung Quốc và thu nhập tăng lên thúc đẩy tiêu dùng nâng cấp; tỷ lệ đô thị hóa của Việt Nam chỉ là 36,6%, vẫn còn nhiều khả năng cải thiện so với các nước có thu nhập trung bình khác.
GDP bình quân đầu người của Việt Nam chưa đến 3.000 USD, nhưng trong bối cảnh chiến tranh thương mại Trung - Mỹ và đại dịch Covid-19, Việt Nam đã trở thành điểm nóng về đầu tư nước ngoài. Chính phủ Nhật Bản đã chi 2,2 tỷ USD để hỗ trợ các công ty Nhật Bản di dời cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc bằng sức mạnh tài chính. Một nửa trong số 30 công ty đầu tiên chuyển đến Đông Nam Á được công bố vào tháng 7 sẽ chuyển đến Việt Nam. Sau đó, Hiệp định Thương mại Tự do EU - Việt Nam (EVFTA) có hiệu lực vào tháng 8/2020. Hiệp định cấp cao này sẽ cắt giảm 99% thuế quan song phương trong vòng 10 năm. Chưa kể, gã khổng lồ Samsung của Hàn Quốc đã rút toàn bộ việc sản xuất hàng điện tử tiêu dùng khỏi Trung Quốc và phần lớn chuyển sang Việt Nam, nhiều công ty sản xuất Trung Quốc cũng coi Việt Nam là điểm đến ưa thích để tránh thuế quan của Mỹ và chuyển hướng sản xuất. Quy mô đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng lớn, thể hiện cục diện mới vừa hợp tác vừa cạnh tranh.
2.6. Sự ổn định chính trị
Ổn định chính trị, xã hội và viễn cảnh hội nhập kinh tế khu vực là động cơ đưa dòng chảy tư bản của thế giới hướng về châu Á.
Tại Đông Nam Á, tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào 10 nước thành viên ASEAN trong năm 2013 theo UNCTAD tăng 7%. Singapore được coi là địa điểm có sức thu hút FDI cao nhất trong khu vực. Với 64 tỷ USD được đầu tư vào đảo quốc nhỏ bé này, Singapore hấp dẫn hơn nhiều so với 2 nước lân cận là Indonesia (19 tỷ USD) và Malaysia (22 tỷ USD).
Nhìn sang Thái Lan, bất ổn chính trị trong 6 tháng cuối năm 2013 là nguyên nhân khiến tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào quốc gia Đông Nam Á này chỉ đạt 13 tỷ USD, thấp hơn so với mong đợi của chính phủ Thái Lan.
Tương tự, các nước Thái Lan, Malaisia và Philipin không nằm trong 25 nước hàng đầu xếp hạng theo Chỉ số tin cậy FDI là do sự bất ổn chính trị và nền kinh tế vận hành kém, thiếu lao động trình độ chuyên môn cao, tăng chi phí lao động.
Trái hẳn với bế tắc chính trị tại Thái Lan, Myamar đang chuyển mình từ năm 2011. Trong năm 2013, theo bảng xếp hạng của Liên Hiệp quốc, nước này thực sự thành công mỹ mãn với kỷ lục 2,6 tỷ USDFDI đầu tư. Riêng đối với 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, theo đánh giá của tổ chức UNCTAD, đầu tư FDI vào các nước này tiếp tục ổn định và tăng trưởng đều dựa trên sự ổn định chính trị.
2.7. Bài học cho Việt Nam
Triển vọng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam năm 2021 được xem là rất sáng sủa trong bối cảnh nhiều nhà đầu tư lớn, vừa và nhỏ từ các quốc gia phát triển dần chuyển hướng đầu tư vào Việt Nam. Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/3/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 10,13 tỷ USD, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện quý I/2021 ước tính đạt 4,1 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước (GSO). Trong số các đối tác FDI vào Việt Nam, những đối tác hàng đầu chủ yếu là các nước châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, song sự hiện diện của các nước phương Tây trong số các đối tác FDI hàng đầu vẫn còn khá thấp.
Thứ nhất, qua kinh nghiệm của Trung Quốc, Việt Nam có thể sử dụng bài học về thành công của chiến lược tập trung ban đầu vào những khu vực có trọng điểm, sau đó mở rộng xúc tiến FDI tại các địa phương khác và đạt được các mục tiêu của chính sách FDI.
Thứ hai, để tận dụng được tốt xu hướng chuyển dịch dòng vốn ngày càng mạnh mẽ vào khu vực châu Á, Việt Nam cần phải quan tâm đến chất lượng dự án đầu tư nước ngoài, đồng thời tăng cường khả năng kết nối của doanh nghiệp trong nước vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo ra cơ hội phát triển toàn diện và bền vững cũng như thúc đẩy hội nhập, mậu dịch tại khu vực châu Á và thế giới để lựa chọn kế hoạch đầu tư mới, mở rộng hợp tác và phát triển lâu dài.
Thứ ba, Nhật Bản là một đối tác đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, tiếp theo là Hàn Quốc và Singapore. Theo khảo sát của Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO), 70% doanh nghiệp của quốc gia này tiếp tục coi Việt Nam là thị trường ưu tiên quan trọng nhất cần được duy trì chiến lược mở rộng hoạt động, vượt qua các đối thủ lớn nhất trong cạnh tranh thu hút vốn đầu tư là Indonesia, Thái Lan và Phillipines. FDI của Nhật Bản vào Việt Nam và các nước ASEAN tập trung 2 lĩnh vực chủ yếu là lĩnh vực chế tạo và phi chế tạo. Trong đó, các nhà đầu tư Nhật Bản chú trọng vào lĩnh vực chế tạo ở các nước Đông Nam Á hơn là lĩnh vực phi chế tạo, bởi các nhà đầu tư đang vận động đề ra các chính sách hấp dẫn thu hút nguồn nhân tài là lực lượng kỹ sư có lợi cho lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, Việt Nam được xem là “đất lành” cho dòng vốn FDI chất lượng cao, các doanh nghiệp quốc tế lớn đang tìm kiếm cơ hội đầu tư nhằm đa dạng hóa chuỗi cung ứng và hạn chế việc quá phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Việt Nam trở thành một trong những ứng cử viên sáng giá đón dòng vốn dịch chuyển này. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào nước ta tăng mạnh, tăng 18,5% (quý I/2021) so với cùng kỳ năm trước, điển hình như Mỹ tăng 205,5%; Nhật Bản tăng 147,7%; Hàn Quốc tăng 67,1%.
Nếu Việt Nam muốn hướng tới thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao, công nghệ cao, Việt Nam cần phải bảo đảm những điều kiện có chất lượng cao (như thể chế, môi trường kinh doanh, con người, vật chất, cơ sở hạ tầng). Chúng ta cần không ngừng cải thiện thủ tục hành chính, hoàn thiện khung pháp lý, có chính sách ưu đãi có chọn lọc phù hợp, đầu tư vào giáo dục và đào tạo nhân lực chất lượng cao, tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng của các khu công nghiệp, khu chế xuất và các khu kinh tế trong cả nước, gia tăng sự kết nối giao thông giữa các vùng địa lý, tạo mọi điều kiện đầu tư kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho các nhà đầu tư.
Thứ tư, có thể thấy sự thành công của Việt Nam trong cuộc đua vào top đầu thế giới về thu hút vốn FDI thời gian qua còn nhờ vào một số yếu tố khác. Trên hết, các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá rất cao về vấn đề ổn định chính trị - xã hội, là một trong những yếu tố góp phần quan trọng để thực hiện các chính sách phát triển kinh tế. Sự thành công trong kiểm soát dịch bệnh Covid-19 thời gian qua cũng là một trong những phép thử của nền kinh tế Việt Nam trước các cú sốc như thiên tai, dịch bệnh, thể hiện sự ổn định chính trị, tạo niềm tin mạnh mẽ với các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.
3. Kết luận
Về mặt khái niệm, mối liên hệ giữa đầu tư và trình độ phát triển của các quốc gia có một số điểm khác với đường lối phát triển đầu tư. Tác giả đã phân tích một số yếu tố tác động đến xu hướng dòng chảy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên cơ sở phân tích xu hướng đầu tư vào châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á. Từ đó, rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc cải thiện môi trường đầu tư và đón đầu xu hướng chuyển dịch dòng vốn FDI trên thế giới.