Trong năm 2014 (tính đến ngày 31/12/2014), Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đã tiếp nhận 153 hồ sơ dự án ĐTRNN, đã cấp mới Giấy chứng nhận
đầu tư ra nước ngoài cho 109 dự án đầu tư sang 28 quốc gia và vùng lãnh thổ với
tổng vốn đăng ký phía Việt Nam trên 1,047 tỷ đô la Mỹ và điều chỉnh GCNĐT cho 22
dự án với tổng vốn tăng thêm đạt 739 triệu USD. Tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước
ngoài (gồm cả cấp mới và tăng vốn) đạt trên 1,786 tỷ USD.
Về số lượng: Các dự án tập trung chủ yếu vào
thị trường Campuchia với 23 dự án (chiếm 21% tổng số dự án), Myanmar với 16 dự
án (14,7%); Lào với 13 dự án (12%); Hoa Kỳ với 12 dự án (11%) và Singapore với
9 dự án (8,2%).
Về quy mô vốn đầu tư cấp mới, lớn nhất là
Tanzania (chỉ có 1 dự án chiếm 34% tổng vốn đăng ký phía Việt Nam); thứ hai là
thị trường Campuchia (chiếm 31,1% tổng vốn đăng ký phía Việt Nam ); thứ ba là
Burundi (chỉ có 2 dự án chiếm 16,2% tổng vốn đăng ký phía Việt Nam). Về lĩnh vực
đầu tư, vốn đầu tư tập trung và lĩnh vực thông tin truyền thông (54,3%),
nông-lâm nghiệp và thủy sản (27,5%), khai khoáng (6%).
Một số dự án lớn trên 50 triệu USD:
- Dự án đầu tư mạng viễn thông tại Tanzania của
Viettel (355,2 triệu USD);
- Dự án đầu tư mạng viễn thông tại Burundi của
Viettel (170 triệu USD);
- Dự án trồng cao su tại Campuchia của CTCP
An Đông Mia (80,4 triệu USD);
- Dự án trồng cao su tại Campuchia của CTCP
Cao su Tây Ninh (64,7 triệu USD);
- Dự án trồng cao su tại Campuchia của CTCP Dầu
Tiếng – Kratie (63,8 triệu USD);
- Dự án trồng cao su tại Campuchia của CTCP
Tân Biên – Kampongthom (61,98 triệu USD).
- Đáng chú ý là Dự án thăm dò, khai thác dầu khí Lô PM304 tại Malaysia điều
chỉnh tăng vốn ĐTRNN thêm 465,32 triệu USD.
Bảy dự án trên đã có số vốn đăng ký 1,261 tỷ
USD (trong tổng vốn đăng ký 1,786 tỷ
USD), chiếm 70,6% tổng vốn đăng ký ĐTRNN của các nhà đầu tư Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy các
dự án quy mô lớn tập trung trong các lĩnh vực viễn thông, nông - lâm nghiệp tập trung tại Lào,
Campuchia và một số nước thuộc Châu Âu, Châu phi, phù hợp với các lĩnh vực và
địa bàn ưu tiên đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam. Đặc biệt, đã có xu hướng đầu
tư sang các thị trường mới nổi, nhiều tiềm năng.
Về tình hình thực hiện
dự án đầu tư tại nước ngoài, trong
năm 2014, theo báo cáo chưa đầy đủ, ước vốn thực hiện đạt khoảng 1 tỷ USD. Theo
số liệu thống kê hiện có, vốn thực hiện lũy kế đến năm 2014 đạt khoảng 6 tỷ
USD, chiếm trên 30,6% tổng vốn đăng ký ĐTRNN. Trong đó, lĩnh vực dầu khí có số
vốn thực hiện lớn nhất đạt khoảng 2,9 tỷ USD; lĩnh vực nông, lâm nghiệp trên 660
triệu USD; lĩnh vực thủy điện đạt khoảng trên 500 triệu USD; lĩnh vực thông tin
truyền thông đạt 450,6 triệu USD; lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm đạt
trên 230 triệu USD…
Tổng vốn đầu tư thực
hiện của các dự án đầu tư ra nước ngoài, có một phần đáng kể vốn được thực hiện
trong nước (không chuyển ra nước ngoài). Theo báo cáo của Tập đoàn dầu khí Việt
Nam, Tập đoàn Sông Đà, Tập đoàn cao su Việt Nam, Tập đoàn Than khoáng sản,
Viettel… một phần vốn đầu tư ra nước ngoài được thực hiện để trả cho các nhà
thầu của Việt Nam hoặc mua háng hóa, dịch vụ của Việt Nam để chuyển ra nước
ngoài thực hiện dự án.
Như vậy, có thể thấy, đầu tư ra nước
ngoài trong năm 2014 vẫn duy trì tỷ lệ vốn đăng ký ổn định, so với cùng kỳ năm
trước, số lượng dự án tăng 10% tuy nhiên tổng vốn đăng ký giảm 10% do các dự án
chủ yếu là quy mô nhỏ, tập trung về thương mại, dịch vụ. Số lượng dự án tập trung
nhiều tại Campuchia và Myanmar. Vốn đầu tư tập trung chủ yếu trong các lĩnh vực
viễn thông, trồng cây công nghiệp, phù hợp định hướng của Chính phủ về khuyến
khích và thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài.
Các dự án còn lại phân bổ đa dạng tại
nhiều quốc gia, khu vực như các nước ASEAN, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Châu Âu, Mỹ,
Úc, Châu Phi; đồng thời tập trung chủ yếu vào kinh doanh thương mại và dịch vụ
trên cơ sở các lĩnh vực kinh doanh cốt lõi của các nhà đầu tư tại Việt Nam.
Ngoài ra, còn có các dự án trong các lĩnh vực xây dựng, vận tải, bất động sản,
sản xuất chế biến... Điều này cho thấy tính đa dạng trong hoạt động đầu tư ra
nước ngoài của doanh nghiệp, cá nhân Việt Nam, đồng thời cho thấy xu hướng tìm
kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm ngày càng tăng, chiến lược đầu tư tập trung
vào các lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư thấp, khả năng quay vòng vốn nhanh, nhanh
chóng đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp.
Các mặt được của DTRNN trong năm
2014:
Tình hình chấp hành pháp luật đầu tư
ra nước ngoài được cải thiện, các doanh nghiệp, cá nhân Việt Nam đã nâng cao ý
thức thực hiện thủ tục đầu tư ra nước ngoài khi có dự án đầu tư tại nước ngoài cũng
như tuân thủ các quy định liên quan trong quá trình triển khai dự án như quy định
về việc chuyển ngoại tệ, lao động, máy móc, thiết bị ra nước ngoài, quy định về
thông báo thực hiện dự án và báo cáo tình hình thực hiện dự án. Thời gian qua,
nhiều dự án đã tự giác thực hiện các báo cáo theo quy định của Chính phủ mà
không cần văn bản nhắc nhở hoặc chủ động tìm hiểu và thực hiện các quy định
liên quan trong quá trình triển khai dự án đầu tư ra nước ngoài.
Trong tổng vốn đầu tư thực hiện, có một
phần đáng kể vốn được thực hiện thông qua việc mua sắm, sử dụng hàng hóa, máy
móc, thiết bị, dịch vụ từ trong nước. Điều này góp phần làm tăng giá trị xuất
khẩu hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam ra nước ngoài.
Thời gian qua, bên cạnh dòng vốn đầu
tư của nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước, đầu tư của khối tư nhân, đặc biệt
là của cá nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp FDI ngày càng tăng.
Trong năm 2014, có 12,5% dự án đầu tư ra nước ngoài được cấp phép là của nhà đầu
tư cá nhân, 76% dự án của các công ty tư nhân. Trong đó, nhiều công ty đã có
tên tuổi trong lĩnh vực hoạt động của mình cũng bắt đầu đầu tư ra nước ngoài
(FPT, BKAV, Tôn Hoa Sen, Kym Đan, chuyển phát Tín Thành...)
Để đạt được những kết quả nêu trên đầu
tiên do thủ tục cấp phép đầu tư ra nước ngoài tiếp tục được thực hiện chặt chẽ,
đặc biệt đối với các dự án sử dụng vốn nhà nước nhưng cũng đồng thời linh hoạt,
đơn giản hóa đối với các dự án quy mô nhỏ, sử dụng vốn tư nhân.
Ngoài ra, việc tăng cường phổ biến
các quy định của pháp luật về đầu tư ra nước ngoài, hướng dẫn, giải đáp trực tiếp
các thắc mắc của nhà đầu tư giúp nâng cao nhận thức của cộng đồng nhà đầu tư Việt
Nam trong việc chấp hành các quy định về triển khai dự án tại nước ngoài.
Công tác quản lý, giám sát dự án sau
cấp phép được quan tâm, thúc đẩy, có sự phối hợp của nhiều Bộ, ngành, địa
phương, đơn vị liên quan, đặc biệt có sự phối hợp với cơ quan quản lý của nước
tiếp nhận đầu tư (đối với địa bàn Lào). Hoạt động này giúp chấn chỉnh hoạt động
đầu tư tuân thủ đúng các quy định của pháp luật liên quan, phát hiện và cảnh bảo
các nguy cơ gây ảnh hưởng đến dự án giúp hạn chế phát sinh vướng mắc, tổng hợp
các vấn đề khó khăn của doanh nghiệp để xem xét, hỗ trợ.
Công tác nghiên cứu xây dựng các đề
án, chính sách, điều chỉnh các quy định pháp luật theo hướng hỗ trợ cho doanh
nghiệp/cá nhân đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt ở các thị trường, lĩnh vực phù hợp
với định hướng được đẩy mạnh nhằm hỗ trợ cho nhà đầu tư Việt Nam.
Một số tồn tại hạn chế và nguyên
nhân:
Bên cạnh những mặt được nêu trên vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong đầu
tư ra nước ngoài năm 2014 như: một số dự án đầu tư vốn tư nhân
không triển khai được hoặc chấm dứt trước hạn, một số dự án sử dụng vốn nhà nước
chậm tiến độ do những biến động của môi trường đầu tư, thời điểm đầu tư, do
kinh doanh thua lỗ, không hiệu quả; một số dự án phát sinh các khó khăn nội tại
trong việc huy động vốn đầu tư, thu xếp các nguồn lực để thực hiện dự án đầu
tư; tình trạng không tuân thủ các quy định về báo cáo tình hình triển khai dự
án đầu tư mặc dù đã được cải thiện tuy nhiên vẫn còn tồn tại ở nhiều dự án. Nhiều
chủ đầu tư chưa nghiêm túc tuân thủ nghĩa vụ này, báo cáo qua loa, không đủ
thông tin, số liệu, tài liệu đính kèm theo quy định hoặc không đúng định kỳ.
Bên cạnh đó, nhiều nhà đầu tư sau khi được cấp phép xong thay đổi địa chỉ, điện
thoại liên hệ khiến cơ quản quản lý không thể liên hệ được. Điều này dẫn đến việc
cơ quản quản lý không thể nắm bắt và theo dõi tình hình hoạt động thực chất của
dự án.
Nguyên nhân của những tồn
tại, hạn chế là do sự khác biệt về thị trường, rào cản ngôn ngữ, văn hóa, thủ
tục pháp lý, biến động kinh tế, chính trị tại địa bàn đầu tư và việc không lường
hết các rủi ro tiềm ẩn...tiếp tục là các rào cản khiến nhiều doanh nghiệp khó
khăn trong việc triển khai dự án tại nước ngoài trong khi doanh nghiệp chưa có
nhiều kinh nghiệm và khả năng cạnh tranh tại thị trường khu vực và quốc tế.
Trên cơ sở số liệu vốn đăng ký các
năm qua và số lượng hồ sơ đang tiếp nhận và xử lý năm 2014, dự kiến số dự án cấp
mới trong năm 2015 khoảng 150 dự án với tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn đăng ký mới
và vốn đăng ký điều chỉnh) khoảng 1,5-2 tỷ USD.
Về vốn thực hiện, theo kết quả vốn thực
hiện năm 2013 và dự kiến thực hiện năm 2014, dự kiến vốn thực hiện năm 2015 đạt
khoảng 1-1,2 tỷ USD.
Các giải pháp để đạt được
chỉ tiêu đã đề ra:
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định dưới luật về đầu tư ra
nước ngoài, mô hình quản lý ĐTRNN nhằm tạo điều kiện thuận lợi và
định hướng cho các cá nhân và doanh nghiệp ĐTRNN an toàn
và hiệu quả, đồng
thời đáp ứng được nhu cầu quản lý của nhà nước đối với ĐTRNN trong thời gian tới.
- Cải tiến thủ tục hành chính đối với
ĐTRNN theo hướng đơn giản thuận tiện, mở rộng hơn nữa diện các dự án thuộc diện
đăng ký, giảm bớt sự can thiệp bằng các biện pháp hành chính ngay cả đối với
các dự án sử dụng vốn nhà nước, tăng quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm của
doanh nghiệp.
- Quy định đồng bộ các biện pháp khuyến
khích và hỗ trợ ĐTRNN một cách cụ thể, trong đó đặc biệt chú trọng các biện
pháp hỗ trợ về cung cấp thông tin về môi trường, cơ hội đầu tư nước sở tại, bảo
hộ quyền lợi của doanh nghiệp ĐTRNN trong quá trình đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài.
- Tăng cường công tác quản lý đối với
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trong đó quản lý chặt chẽ đối với
dòng vốn ĐTRNN có sử dụng vốn nhà nước, bảo đảm việc sử dụng vốn nhà nước được
công khai, minh bạch và hiệu quả. Các Bộ, ngành liên quan sớm ban hành hoặc
trình Chính phủ, Quốc hội ban hành mới hoặc hoàn thiện các văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành có liên quan đến đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước, bảo đảm
có đủ công cụ
và phương tiện để quản lý, giám sát việc đầu tư có hiệu quả các dự án
đầu tư ra nước ngoài có sử dụng vốn đầu tư của nhà nước.
- Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư ra nước ngoài, chú
trọng địa bàn truyền thống, đồng thời có sự quan tâm đúng mức tới các địa bàn
tiềm năng.