Luật
Doanh nghiệp (sửa đổi) vừa được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua vào
ngày 26/11/2014 đã có nhiều cải cách quan trọng, góp phần đơn giản hoá
thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp hoạt động
tại Việt Nam.
Tách riêng thủ tục thành lập doanh nghiệp với các
thủ tục về đầu tư dự án
Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) đã tách riêng thủ tục
thành lập doanh nghiệp với các thủ tục về đầu tư dự án, cũng như với các thủ
tục có liên quan về cổ phần, cổ phiếu. Với nhà đầu tư nước ngoài, Luật đã tách
giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp và chứng nhận đầu tư. Luật cũng tạo ra
cơ hội lớn hơn về khả năng gia nhập thị trường, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là
hình thức để Nhà nước ghi nhận sự hình thành và việc gia nhập thị trường của
doanh nghiệp. Tại thời điểm thành lập doanh nghiệp, hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp chưa phát sinh, do vậy Luật đã tách biệt rõ giữa thủ tục
thành lập doanh nghiệp và thủ tục đăng ký kinh doanh, điều kiện kinh doanh. Trước đây có một số ngành nghề không rõ ràng giữa
thành lập doanh nghiệp và kinh doanh có điều kiện ví dụ như lĩnh vực y tế, bắt
buộc cá nhân thành lập doanh nghiệp thì giám đốc phải có chứng chỉ hành nghề.
Nhưng theo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), cá nhân cứ thành lập doanh nghiệp, còn
điều kiện về ngành nghề kinh doanh, cá nhân phải tuân thủ mới được làm. Quy
định đó tạo sự thân thiện hơn cho khởi nghiệp và kinh doanh nói chung.
Bãi bỏ quy định đề nghị doanh nghiệp cung cấp mã
ngành khi thực hiện đăng ký kinh doanh
Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã bỏ quy định về
việc doanh nghiệp phải hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, mà chỉ quy định về việc đáp ứng đủ điều
kiện kinh doanh khi kinh doanh những ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
theo quy định của pháp luật và bảo đảm duy trì đủ điều kiện đầu tư kinh doanh
đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Theo Luật này, doanh
nghiệp được tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ
động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh
quy mô và ngành, nghề kinh doanh, Như vậy, quy định về đề nghị doanh nghiệp cung cấp mã
ngành khi thực hiện đăng ký kinh doanh đã bị bãi bỏ. Doanh nghiệp sẽ không bị
hạn chế số lượng ngành nghề hoạt động kinh doanh. Các công ty thương mại và phân phối sẽ
không cần cung cấp hàng nghìn mã ngành cho sản phẩm thương mại của mình như
trước, kể cả những sản phẩm mà họ dự định kinh doanh trong tương lai.
Cải cách quan trọng về con dấu
Về vấn đề con dấu của doanh nghiệp, dù chưa
thể bỏ hoàn toàn việc sử dụng con dấu, nhưng đã có bước cải cách
quan trọng. Trước đây việc cấp, sử dụng con dấu của doanh nghiệp do Bộ
Công an quy định thì nay theo Luật Doanh
nghiệp (sửa đổi), doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; đồng thời, có nghĩa vụ thông báo mẫu dấu với cơ
quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về
đăng ký doanh nghiệp. Quy định này giúp doanh nghiệp đỡ phiền hà,
tốn kém về chi phí, thời gian. Tuy vậy, không phải tất cả văn bản của doanh nghiệp phải đóng
dấu mà chỉ đóng dấu vào văn bản nào pháp luật quy định hoặc do đối tác yêu cầu
phải có dấu. Theo xu hướng phát triển phương thức giao dịch điện tử, thì việc
dùng con dấu sẽ không còn ý nghĩa nữa. Vì vậy, việc cải cách về con dấu là hoàn
toàn phù hợp với xu thế chung của thế giới. Hiện nay, con dấu doanh nghiệp còn
bị ràng buộc bởi nhiều quy định về giao dịch trong một số bộ luật, nếu bỏ hoàn
toàn sẽ phát sinh số lượng công việc rất lớn và có thể chưa đảm bảo chặt chẽ
trong quản lý.
Doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100%
vốn điều lệ
Thay
vì quy định Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên
50% vốn điều lệ, Luật Doanh nghiệp 2014 sửa đổi quy định doanh nghiệp Nhà nước
là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Như vậy, doanh nghiệp
100% vốn Nhà nước chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, còn lại nên cổ phần hóa hết để
bình đẳng về địa vị, bình đẳng về cơ hội và bình đẳng về bảo hộ của Nhà nước.
Luật cũng sửa đổi một số nội dung mới về việc xác định rõ ràng hơn địa vị pháp
lý tập đoàn kinh tế, bổ sung quy định rõ hơn về hình thức công ty mẹ - công ty con;
cấm các công ty con trong cùng một nhóm công ty cùng nhau góp vốn, mua cổ phần
để sở hữu chéo lẫn nhau; bổ sung quy định nhằm minh bạch hóa cơ cấu và mối quan
hệ giữa các công ty trong tập đoàn kinh tế, như công khai điều lệ hoặc thỏa
thuận về quy chế hoạt động chung tập đoàn. Bên cạnh đó, Luật cũng sửa đổi một số nội dung liên
quan đến việc bãi bỏ quy định hạn chế sáp nhập, hợp nhất, chia, tách công ty
đối với công ty cùng loại hình tổ chức. Cho phép các công ty có cùng bản chất
sở hữu có thể hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, quy định rõ hơn và hợp lý hơn
trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp; thống nhất một đầu mối và tăng cường
phối hợp giữa các cơ quan đăng ký kinh doanh, thuế và công an trong giải quyết
thủ tục giải thể doanh nghiệp.
Bên
cạnh đó, nhằm nâng cao hiệu lực giám sát nội bộ của chủ sở hữu nhà nước và giám
sát thị trường đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, đồng thời
giảm chi phí tổ chức quản lý và điều hành của doanh nghiệp, Luật đã hoàn thiện
một số quy định sau:
Thứ nhất, bổ
sung quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn, nhiệm kỳ của người đại diện phần vốn
nhà nước và người quản lý trong doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ.
Thứ hai, xác
định rõ khái niệm về tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhằm khắc phục cách hiểu
không thống nhất, gây nhầm lẫn về địa vị, tư cách pháp lý của công ty mẹ của tập
đoàn với cả nhóm công ty hiện nay.
Thứ
ba, tăng
tính linh hoạt cho công ty trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào quản
trị doanh nghiệp và thiết lập nguyên tắc quản trị phù hợp với tình hình thực tiễn
từng doanh nghiệp.
Ngoài ra, Luật còn quy định
phương thức quản lý nhà nước mới, hiện đại, phù hợp với sự phát triển ngày càng
mở rộng của nền kinh tế. Theo đó, Nhà nước chỉ là một bên (nhưng không phải là
duy nhất) chịu trách nhiệm giám sát hoạt động doanh nghiệp. Nhà nước tập trung
hơn vào tăng cường sự phối hợp, trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý nhằm
xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ, cập nhật và công khai về hoạt động của
doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh.
Về doanh nghiệp xã hội
Doanh nghiệp xã hội không phải là một loại hình doanh nghiệp đặc
thù riêng mà cũng giống như doanh nghiệp thông thường, vẫn tổ chức và hoạt động
theo một trong các loại hình doanh nghiệp (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn…) chỉ phân biệt ở mục đích phân phối và sử dụng lợi nhuận. Theo đó,
doanh nghiệp xã hội là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của
Luật này, mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi
ích cộng đồng và sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp
để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký. Luật
Doanh nghiệp sửa đổi đã quy định những nội dung mang tính nguyên tắc để ghi
nhận về mặt pháp lý sự tồn tại và làm cơ sở để ban hành các văn bản quy định
chi tiết sau này.
Về vấn đề người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Theo Luật Doanh nghiệp sửa đổi, người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và
nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với
tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng
tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Công ty
hoàn toàn có thể tự quyết định, chỉ định một người đại diện theo pháp luật.
Trường hợp cần thiết thì có quyền tự chủ quyết định việc có nhiều người đại
diện theo pháp luật; phạm vi quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện phải được
ghi rõ trong Điều lệ công ty. Tùy từng nội dung giao dịch, người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp với thẩm quyền tương ứng được quy định trong Điều lệ
sẽ thực hiện giao dịch với các đối tác.
Không bắt buộc Phiếu lý lịch tư pháp trong Hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp
Luật Doanh nghiệp 2014 quy định, trong trường hợp Cơ
quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải
nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh. Như vậy, Phiếu lý
lịch tư pháp không phải là tài liệu bắt buộc trong Hồ sơ đăng ký thành lập
doanh nghiệp bởi nếu bắt buộc sẽ làm tăng thêm thời gian thành lập doanh nghiệp tạo
ra gánh nặng chi phí tuân thủ rất lớn cho cả cơ quan nhà nước và doanh nghiệp,
sẽ có tác động không thuận lợi cho môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta./.