BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
CỤC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Chủ Nhật, 24/11/2024
Chính sách đầu tư vào
Một số cải cách quan trọng trong Luật doanh nghiệp (sửa đổi) 2014
Thứ Sáu, 05/12/2014 03:24
Một số cải cách quan trọng trong Luật doanh nghiệp (sửa đổi) 2014

Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) vừa được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua vào ngày 26/11/2014 đã có nhiều cải cách quan trọng, góp phần đơn giản hoá thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam.

Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) vừa được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua vào ngày 26/11/2014 đã có nhiều cải cách quan trọng, góp phần đơn giản hoá thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam.

Tách riêng thủ tục thành lập doanh nghiệp với các thủ tục về đầu tư dự án

Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) đã tách riêng thủ tục thành lập doanh nghiệp với các thủ tục về đầu tư dự án, cũng như với các thủ tục có liên quan về cổ phần, cổ phiếu. Với nhà đầu tư nước ngoài, Luật đã tách giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp và chứng nhận đầu tư. Luật cũng tạo ra cơ hội lớn hơn về khả năng gia nhập thị trường, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là hình thức để Nhà nước ghi nhận sự hình thành và việc gia nhập thị trường của doanh nghiệp. Tại thời điểm thành lập doanh nghiệp, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp chưa phát sinh, do vậy Luật đã tách biệt rõ giữa thủ tục thành lập doanh nghiệp và thủ tục đăng ký kinh doanh, điều kiện kinh doanh. Trước đây có một số ngành nghề không rõ ràng giữa thành lập doanh nghiệp và kinh doanh có điều kiện ví dụ như lĩnh vực y tế, bắt buộc cá nhân thành lập doanh nghiệp thì giám đốc phải có chứng chỉ hành nghề. Nhưng theo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), cá nhân cứ thành lập doanh nghiệp, còn điều kiện về ngành nghề kinh doanh, cá nhân phải tuân thủ mới được làm. Quy định đó tạo sự thân thiện hơn cho khởi nghiệp và kinh doanh nói chung.

Bãi bỏ quy định đề nghị doanh nghiệp cung cấp mã ngành khi thực hiện đăng ký kinh doanh

Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã bỏ quy định về việc doanh nghiệp phải hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, mà chỉ quy định về việc đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh khi kinh doanh những ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật và bảo đảm duy trì đủ điều kiện đầu tư kinh doanh đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Theo Luật này, doanh nghiệp được tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh, Như vậy, quy định về đề nghị doanh nghiệp cung cấp mã ngành khi thực hiện đăng ký kinh doanh đã bị bãi bỏ. Doanh nghiệp sẽ không bị hạn chế số lượng ngành nghề hoạt động kinh doanh. Các công ty thương mại và phân phối sẽ không cần cung cấp hàng nghìn mã ngành cho sản phẩm thương mại của mình như trước, kể cả những sản phẩm mà họ dự định kinh doanh trong tương lai.

Cải cách quan trọng về con dấu

Về vấn đề con dấu của doanh nghiệp, dù chưa thể bỏ hoàn toàn việc sử dụng con dấu, nhưng đã có bước cải cách quan trọng. Trước đây việc cấp, sử dụng con dấu của doanh nghiệp do Bộ Công an quy định thì nay theo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; đồng thời, có nghĩa vụ thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Quy định này giúp doanh nghiệp đỡ phiền hà, tốn kém về chi phí, thời gian. Tuy vậy, không phải tất cả văn bản của doanh nghiệp phải đóng dấu mà chỉ đóng dấu vào văn bản nào pháp luật quy định hoặc do đối tác yêu cầu phải có dấu. Theo xu hướng phát triển phương thức giao dịch điện tử, thì việc dùng con dấu sẽ không còn ý nghĩa nữa. Vì vậy, việc cải cách về con dấu là hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của thế giới. Hiện nay, con dấu doanh nghiệp còn bị ràng buộc bởi nhiều quy định về giao dịch trong một số bộ luật, nếu bỏ hoàn toàn sẽ phát sinh số lượng công việc rất lớn và có thể chưa đảm bảo chặt chẽ trong quản lý.

Doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ

Thay vì quy định Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ, Luật Doanh nghiệp 2014 sửa đổi quy định doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Như vậy, doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, còn lại nên cổ phần hóa hết để bình đẳng về địa vị, bình đẳng về cơ hội và bình đẳng về bảo hộ của Nhà nước. Luật cũng sửa đổi một số nội dung mới về việc xác định rõ ràng hơn địa vị pháp lý tập đoàn kinh tế, bổ sung quy định rõ hơn về hình thức công ty mẹ - công ty con; cấm các công ty con trong cùng một nhóm công ty cùng nhau góp vốn, mua cổ phần để sở hữu chéo lẫn nhau; bổ sung quy định nhằm minh bạch hóa cơ cấu và mối quan hệ giữa các công ty trong tập đoàn kinh tế, như công khai điều lệ hoặc thỏa thuận về quy chế hoạt động chung tập đoàn. Bên cạnh đó, Luật cũng sửa đổi một số nội dung liên quan đến việc bãi bỏ quy định hạn chế sáp nhập, hợp nhất, chia, tách công ty đối với công ty cùng loại hình tổ chức. Cho phép các công ty có cùng bản chất sở hữu có thể hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, quy định rõ hơn và hợp lý hơn trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp; thống nhất một đầu mối và tăng cường phối hợp giữa các cơ quan đăng ký kinh doanh, thuế và công an trong giải quyết thủ tục giải thể doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, nhằm nâng cao hiệu lực giám sát nội bộ của chủ sở hữu nhà nước và giám sát thị trường đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, đồng thời giảm chi phí tổ chức quản lý và điều hành của doanh nghiệp, Luật đã hoàn thiện một số quy định sau:

Thứ nhất, bổ sung quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn, nhiệm kỳ của người đại diện phần vốn nhà nước và người quản lý trong doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ.

Thứ hai, xác định rõ khái niệm về tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhằm khắc phục cách hiểu không thống nhất, gây nhầm lẫn về địa vị, tư cách pháp lý của công ty mẹ của tập đoàn với cả nhóm công ty hiện nay.

Thứ ba, tăng tính linh hoạt cho công ty trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào quản trị doanh nghiệp và thiết lập nguyên tắc quản trị phù hợp với tình hình thực tiễn từng doanh nghiệp.

Ngoài ra, Luật còn quy định phương thức quản lý nhà nước mới, hiện đại, phù hợp với sự phát triển ngày càng mở rộng của nền kinh tế. Theo đó, Nhà nước chỉ là một bên (nhưng không phải là duy nhất) chịu trách nhiệm giám sát hoạt động doanh nghiệp. Nhà nước tập trung hơn vào tăng cường sự phối hợp, trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý nhằm xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ, cập nhật và công khai về hoạt động của doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh.

Về doanh nghiệp xã hội 

Doanh nghiệp xã hội không phải là một loại hình doanh nghiệp đặc thù riêng mà cũng giống như doanh nghiệp thông thường, vẫn tổ chức và hoạt động theo một trong các loại hình doanh nghiệp (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn…) chỉ phân biệt ở mục đích phân phối và sử dụng lợi nhuận. Theo đó, doanh nghiệp xã hội là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của Luật này, mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng và sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký. Luật Doanh nghiệp sửa đổi đã quy định những nội dung mang tính nguyên tắc để ghi nhận về mặt pháp lý sự tồn tại và làm cơ sở để ban hành các văn bản quy định chi tiết sau này.

Về vấn đề người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Theo Luật Doanh nghiệp sửa đổi, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Công ty hoàn toàn có thể tự quyết định, chỉ định một người đại diện theo pháp luật. Trường hợp cần thiết thì có quyền tự chủ quyết định việc có nhiều người đại diện theo pháp luật; phạm vi quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện phải được ghi rõ trong Điều lệ công ty. Tùy từng nội dung giao dịch, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với thẩm quyền tương ứng được quy định trong Điều lệ sẽ thực hiện giao dịch với các đối tác.

Không bắt buộc Phiếu lý lịch tư pháp trong Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp

Luật Doanh nghiệp 2014 quy định, trong trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh. Như vậy, Phiếu lý lịch tư pháp không phải là tài liệu bắt buộc trong Hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp bởi nếu bắt buộc sẽ làm tăng thêm thời gian thành lập doanh nghiệp tạo ra gánh nặng chi phí tuân thủ rất lớn cho cả cơ quan nhà nước và doanh nghiệp, sẽ có tác động không thuận lợi cho môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta./.
Số lượt đọc: 393
Thông báo