Các nội dung
báo cáo gồm vốn đầu tư thực hiện, kết quả hoạt động đầu tư kinh doanh, thông
tin về lao động, nộp ngân sách nhà nước, đầu tư cho nghiên cứu và phát triển,
xử lý và bảo vệ môi trường và các chỉ tiêu chuyên ngành theo lĩnh vực hoạt động.
Ngoài ra, cơ
quan đăng ký đầu tư báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hàng
tháng, quý, năm về tình hình tiếp nhận, cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư và tình hình hoạt động của các dự án đầu tư thuộc phạm vi
quản lý.
Hằng quý, hằng
năm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổng hợp, báo cáo Bộ Kế hoạch và đầu tư về tình
hình đầu tư trên địa bàn; các bộ, cơ quan ngang bộ báo cáo về tình hình cấp,
điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc các giấy tờ có giá trị
tương đương khác thuộc phạm vi quản lý (nếu có); báo cáo về hoạt động đầu tư
liên quan đến phạm vi quản lý của ngành và gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp
báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Với chức năng là cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư tại
Việt Nam, hằng quý, hằng năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Thủ tướng
Chính phủ về tình hình đầu tư trên phạm vi cả nước và báo cáo đánh giá về tình
hình thực hiện chế độ báo cáo đầu tư của các cơ quan.
Ngoài ra, Luật Đầu tư (sửa đổi) cũng quy định
về Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư (tại Điều 70), theo đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ
quan có liên quan xây dựng và vận hành Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư;
đánh giá việc vận hành hệ thống của cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư ở trung
ương và địa phương. Đồng thời, cơ quan
quản lý nhà nước về đầu tư và nhà đầu tư có trách nhiệm cập nhật đầy đủ, kịp thời,
chính xác các thông tin liên quan vào Hệ thống thống tin quốc gia về đầu tư.