Tính đến 20/9/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh
và góp vốn mua cổ phần,
mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn
thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 13,28 tỷ USD, giảm 3,5%
so với cùng kỳ năm 2020.
Tính lũy kế đến ngày 20/8/2021, cả nước có 34.141 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký 403,19 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của
các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 245,14 tỷ USD, bằng 60,8% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Thông tin chi tiết như sau:
1. Tình hình thu hút ĐTNN
9
tháng năm 2021
1.1. Tình hình hoạt động
Vốn thực hiện:
Dịch covid diễn biến phức tạp những tháng gần đây dẫn tới một số nhà
máy bị ngưng hoặc giảm công suất, ước tính các dự án đầu tư nước ngoài đã giải ngân được 13,28 tỷ USD trong 9
tháng năm 2021, giảm 3,5% so với cùng kỳ năm 2020 và giảm 5,5 điểm phần trăm so với 8 tháng năm 2021.
Tình hình xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu: Kim
ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tiếp tục tăng trong 9 tháng, song mức độ tăng giảm nhẹ so với 8 tháng. Xuất
khẩu kể cả dầu thô ước
đạt gần 178 tỷ USD, tăng 22,9% so với
cùng kỳ, chiếm 73,8%
kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt trên 176,8 tỷ USD, tăng 23,3% so với cùng
kỳ, chiếm 73,4% kim
ngạch xuất khẩu cả nước.
Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực
ĐTNN ước đạt 159,8 tỷ USD, tăng 34,4% so cùng kỳ và chiếm 65,3% kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Tính chung trong 9 tháng năm 2021, khu vực ĐTNN xuất
siêu gần 18,2 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu 17,1
tỷ USD không
kể dầu thô. Trong khi đó, khu vực doanh
nghiệp trong nước nhập siêu 21,8 tỷ USD.
1.2. Tình hình đăng ký đầu tư
Tính đến 20/09/2021, tổng vốn
đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn đăng ký mới và vốn điều chỉnh
tiếp tục duy trì mức tăng và tăng mạnh hơn so với 8 tháng. Trong khi đó, GVMCP
vẫn tiếp tục giảm so với cùng kỳ.
Trong đó:
Vốn đăng ký mới: Có 1.212
dự án mới
được cấp GCNĐKĐT (giảm 37,8%),
tổng vốn
đăng ký đạt gần 12,5 tỷ USD (tăng 20,6% so với cùng kỳ).
Vốn điều chỉnh: Có 678 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (giảm 15%), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt trên 6,4 tỷ USD (tăng 25,6% so với cùng kỳ).
Góp vốn, mua cổ phần: Có 2.830 lượt GVMCP của nhà ĐTNN (giảm 45,3%),
tổng giá trị
vốn góp đạt gần 3,2 tỷ USD (giảm 43,8% so với cùng kỳ).
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục I kèm theo).
Theo lĩnh vực đầu tư:
Các nhà đầu tư nước
ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt trên
11,8 tỷ USD, chiếm 53,4% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Ngành sản xuất, phân phối điện mặc dù thu hút được số lượng dự án mới,
điều chỉnh cũng như GVMCP không nhiều song với quy mô dự án lớn nên đứng thứ 2
với tổng vốn đầu tư trên 5,5
tỷ USD, chiếm gần 25% tổng vốn
đầu tư đăng ký. Tiếp theo lần lượt là các ngành kinh doanh bất động sản, bán buôn, bán lẻ với
tổng vốn đăng ký đạt 1,78
tỷ USD và trên 750 triệu USD. Còn lại
là các ngành khác.
Nếu xét về số lượng dự án mới, ngành công nghiệp chế biến
chế tạo, bán buôn bán lẻ và hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ dẫn đầu,
chiếm lần lượt 33,2%, 28,2% và 14,9% tổng số dự án.
Theo đối tác
đầu tư:
Đã có 94 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư
tại Việt Nam trong 9 tháng
đầu năm. Trong đó, Singapore dẫn
đầu với tổng vốn đầu tư gần
6,3 tỷ USD, chiếm 28,4% tổng vốn
đầu tư vào Việt Nam, giảm 7,2%
so với cùng kỳ 2020; Hàn
Quốc vượt qua Nhật Bản, đứng thứ hai
với tổng vốn đầu tư trên 3,9 tỷ
USD, chiếm 17,7% tổng vốn đầu
tư, tăng 23,4% so với cùng kỳ. Nhật Bản đứng thứ 3 với tổng
vốn đầu tư đăng ký gần 3,3 tỷ USD, chiếm
14,7% tổng vốn đầu tư, tăng 88,8% so với cùng kỳ. Tiếp theo
là Trung Quốc, Hồng Kông, Đài
Loan,…
Trong 9 tháng 2021, vốn đầu tư của Singapore gấp 1,6 lần
vốn đầu tư của Hàn Quốc và gấp gần 1,9 lần vốn đầu tư của Nhật Bản do Singapore
có dự án lớn 3,1 tỷ USD. Riêng dự án này đã chiếm tới 49,3% tổng vốn đầu tư của
Singapore. Hàn Quốc mặc dù chỉ xếp thứ 2 về vốn đầu tư, song lại là đối tác dẫn
đầu về số dự án đầu tư mới, số lượt dự án điều chỉnh vốn cũng như số lượt GVMCP.
Như vậy, nếu xét về số lượng dự án, Hàn Quốc là đối tác có nhiều nhà đầu tư
quan tâm và đưa ra các quyết định đầu tư mới cũng như mở rộng dự án đầu tư nhất
trong 9 tháng.
Theo địa bàn đầu tư:
Các nhà ĐTNN đã đầu
tư vào 58 tỉnh, thành
phố trên cả nước trong 9 tháng
đầu năm. Long An dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 3,6 tỷ USD, chiếm 16,4% tổng vốn đầu tư đăng ký, trong đó có dự án điện lớn lên tới 3,1 tỷ USD (chiếm tới 85,3% tổng vốn đầu tư của Long
An). Với dự án điều chỉnh vốn lớn 1,4 tỷ USD,
Hải Phòng vượt lên đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký 2,7 tỷ USD, chiếm 12,2% tổng vốn đầu tư. TP Hồ Chí Minh đứng thứ 3 với gần 2,4 tỷ USD, chiếm 10,6% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt là Bình Dương, Cần Thơ, Quảng Ninh,..
Nếu xét về số dự án, các nhà ĐTNN vẫn
tập trung đầu tư nhiều tại các thành phố lớn, có cơ sở hạ tầng thuận lợi như
TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bắc Ninh. Trong đó, TP Hồ Chí Minh dẫn đầu cả về số dự
án mới (33,3%), số lượt dự án điều chỉnh (17,4%) và GVMCP (59,5%). Hà Nội tuy
không thuộc top 5 địa phương thu hút ĐTNN trong 9 tháng, song xếp thứ 2 về số
dự án mới (21,1%), số lượt dự án điều chỉnh (14%) và GVMCP (11,9%).
(Biểu số
liệu chi tiết tại Phụ lục II kèm theo).
Một số
dự án lớn trong 9 tháng đầu năm 2021:
(1) Dự án Nhà máy điện LNG Long An I
và II (Singapore), tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD với mục tiêu truyền tải và
phân phối điện, sản xuất điện tại Long An (cấp GCNĐKĐT ngày 19/3/2021).
(2) Dự án LG Display Hải Phòng (Hàn Quốc), điều chỉnh tăng vốn đầu tư
thêm 2,15 tỷ USD (trong đó điều chỉnh tăng 1,4 tỷ USD ngày 30/8/2021 và tăng
750 triệu USD ngày 04/02/2021).
(3) Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản), tổng vốn đăng ký trên
1,31 tỷ USD với mục tiêu xây dựng một nhà máy nhiệt điện nhằm đáp ứng nhu cầu
cung cấp điện cho lưới điện khu vực và hệ thống điện quốc gia tại Cần Thơ (cấp
GCNĐKĐT ngày 22/01/2021).
(4) Dự án nhà máy sản xuất giấy
Kraft Vina công suất 800.000 tấn/năm (Nhật Bản), tổng vốn đầu tư 611,4 triệu
USD với mục tiêu sản xuất giấy kraft, giấy lót và giấy bao bì tại Vĩnh Phúc
(cấp GCNĐKĐT ngày 23/7/2021).
(5) Dự án Nhà máy Công ty TNHH Polytex Far Eastern Việt Nam (Đài Loan),
điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 610 triệu USD (GCNĐT điều chỉnh cấp ngày
13/5/2021).
2. Nhận xét về tình
hình đầu tư nước ngoài trong 9 tháng đầu năm 2021.
- Vốn đầu tư
thực hiện của các dự án ĐTNN trong 9 tháng đầu năm giảm 3,5% so với cùng kỳ và
giảm 5,5 điểm phần trăm so với 8 tháng đầu năm.
Đại dịch covid-19 vẫn diễn biến phức tạp tiếp tục có tác động không nhỏ tới
hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp khu vực phía Nam.
- Vốn đầu tư
đăng ký mới và vốn đầu tư điều chỉnh tiếp tục duy trì tăng và đạt mức tăng mạnh
hơn so với 8 tháng đầu năm. Tuy nhiên số lượng dự án cấp mới, điều
chỉnh vẫn giảm so với cùng kỳ (tương ứng 37,8% và 15%). Việc suy giảm số dự án này chủ yếu tập trung vào
nhóm dự án quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD), trong khi số lượng các dự án quy mô lớn
(trên 50 triệu USD) vẫn duy trì tăng mạnh trong 9 tháng năm 2021.
- Xuất nhập khẩu
của khu vực ĐTNN tiếp tục tăng trong 9 tháng đầu năm. Khu vực ĐTNN xuất siêu gần 18,2 tỷ USD kể
cả dầu thô. Tuy nhiên, mức xuất siêu của khu vực ĐTNN không đủ bù đắp phần nhập
siêu 21,8 tỷ của khu vực trong nước. Vì vậy cả nước nhập siêu 3,6 tỷ USD trong 9
tháng. Mức độ nhập siêu của cả nước đã giảm chút ít so với 8 tháng,
song vẫn tăng hơn so với 7 tháng và 6 tháng năm 2021, là dấu hiệu tiếp tục cảnh
báo tác động tiêu cực và sức chống chịu của khu vực trong nước trước đại dịch.
Một số
nguyên nhân làm giảm số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh và GVMCP
* Nguyên nhân khách quan:
- Dòng vốn ĐTNN toàn cầu suy giảm mạnh, làm ảnh hưởng
đến dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam.
- Sự cạnh tranh
trong thu hút ĐTNN giữa các quốc gia ngày càng gia tăng.
- Hoạt động
M&A toàn cầu giảm sút.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Chính sách thu hút đầu tư có chọn lọc của Việt Nam
(giảm số lượng, tăng về chất lượng) làm loại bỏ các dự án quy mô nhỏ, ít giá
trị gia tăng.
-
Việc hạn chế nhập cảnh và chính sách cách
ly dài ngày làm chững lại các đoàn chuyên gia và nhóm phát triển dự án vào Việt
Nam khảo sát và làm các thủ tục đầu tư. Ngoài ra, việc phong tỏa nhà máy và hạn
chế di chuyển của người lao động trong các KCN làm đình trệ sản xuất, giảm công
suất và sản lượng, đứt gãy chuỗi cung ứng cũng góp phần làm ảnh hưởng đến tâm
lý của các nhà đầu tư mới đang có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam.
-
Do đóng cửa nhà máy, thiếu hụt lao động để sản xuất nên nhiều đơn hàng phải
chuyển sang các địa bàn khác trong chuỗi cung ứng. Tuy đây chỉ là giải pháp tạm
thời, nhưng nếu kéo dài tình trạng này thì có khả năng nhà đầu tư sẽ chuyển sản
xuất sang nước khác.
3. Tình hình
ĐTNN luỹ kế tới 20/09/2021
Tính lũy kế
đến ngày 20/09/2021, cả nước có 34.141 dự án còn hiệu lực với tổng vốn
đăng ký gần 403,2 tỷ USD. Vốn
thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 245,14 tỷ USD, bằng 60,8% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.
- Theo ngành: các nhà
ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với 238,2 tỷ USD, chiếm 59,1% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh bất động sản với gần 61,3 tỷ USD
(chiếm 15,2%
tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với trên 33,9 tỷ USD (chiếm 8,4% tổng vốn đầu
tư).
- Theo đối tác đầu tư: Hiện có 141
quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn
Quốc với tổng vốn đăng ký gần 73,8 tỷ USD (chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư). Nhật Bản đứng thứ hai với gần 63,9 tỷ USD (chiếm 15,8% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài
Loan, Hồng Kông.
- Theo địa bàn: ĐTNN đã có mặt ở
tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với gần 49,1 tỷ
USD (chiếm 12,2% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Bình Dương với gần 36,9 tỷ USD (chiếm 9,1% tổng vốn đầu tư); Hà
Nội với 36,7 tỷ USD (chiếm gần 9,1% tổng vốn đầu tư).
(Biểu số
liệu chi tiết tại Phụ lục III kèm theo)
Trong 8 tháng
năm 2021 số lượng dự án quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD) giảm 41,7%,
trong khi số lượng các dự án quy mô lớn (trên
50 triệu USD) vẫn tăng 57% so với cùng kỳ 2020.