BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
CỤC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Thứ Năm, 21/11/2024
Số liệu FDI hàng tháng
Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 9 tháng năm 2021
Thứ Năm, 23/09/2021 12:01
Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 9 tháng năm 2021

Tính đến 20/9/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 13,28 tỷ USD, giảm 3,5% so với cùng kỳ năm 2020.

Tính đến 20/9/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 13,28 tỷ USD, giảm 3,5% so với cùng kỳ năm 2020.

Tính lũy kế đến ngày 20/8/2021, cả nước có 34.141 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng 403,19 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 245,14 tỷ USD, bằng 60,8% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.

Thông tin chi tiết như sau:

1. Tình hình thu hút ĐTNN 9 tháng năm 2021

1.1. Tình hình hoạt động

Vốn thực hiện:

Dịch covid diễn biến phức tạp những tháng gần đây dẫn tới một số nhà máy bị ngưng hoặc giảm công suất, ước tính các dự án đầu tư nước ngoài đã giải ngân được 13,28 tỷ USD trong 9 tháng năm 2021, giảm 3,5% so với cùng kỳ năm 2020 và giảm 5,5 điểm phần trăm so với 8 tháng năm 2021.

Tình hình xuất, nhập khẩu:

Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tiếp tục tăng trong 9 tháng, song mức độ tăng giảm nhẹ so với 8 tháng. Xuất khẩu kể cả dầu thô ước đạt gần 178 tỷ USD, tăng 22,9% so với cùng kỳ, chiếm 73,8% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt trên 176,8 tỷ USD, tăng 23,3% so với cùng kỳ, chiếm 73,4% kim ngạch xuất khẩu cả nước.

Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực ĐTNN ước đạt 159,8 tỷ USD, tăng 34,4% so cùng kỳ và chiếm 65,3% kim ngạch nhập khẩu cả nước.

Tính chung trong 9 tháng năm 2021, khu vực ĐTNN xuất siêu gần 18,2 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu 17,1 tỷ USD không kể dầu thô. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu 21,8 tỷ USD.

1.2. Tình hình đăng ký đầu tư

Tính đến 20/09/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn đăng ký mới và vốn điều chỉnh tiếp tục duy trì mức tăng và tăng mạnh hơn so với 8 tháng. Trong khi đó, GVMCP vẫn tiếp tục giảm so với cùng kỳ.

Trong đó:

Vốn đăng ký mới: Có 1.212 dự án mới được cấp GCNĐKĐT (giảm 37,8%), tổng vốn đăng ký đạt gần 12,5 tỷ USD (tăng 20,6% so với cùng kỳ).

Vốn điều chỉnh: Có 678 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (giảm 15%), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt trên 6,4 tỷ USD (tăng 25,6% so với cùng kỳ)[1].

Góp vốn, mua cổ phần: Có 2.830 lượt GVMCP của nhà ĐTNN (giảm 45,3%), tổng giá trị vốn góp đạt gần 3,2 tỷ USD (giảm 43,8% so với cùng kỳ).

 (Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục I kèm theo).

  Theo lĩnh vực đầu tư:

Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt trên 11,8 tỷ USD, chiếm 53,4% tổng vốn đầu tư đăng ký. Ngành sản xuất, phân phối điện mặc dù thu hút được số lượng dự án mới, điều chỉnh cũng như GVMCP không nhiều song với quy mô dự án lớn nên đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư trên 5,5 tỷ USD, chiếm gần 25% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo lần lượt là các ngành kinh doanh bất động sản, bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đăng ký đạt 1,78 tỷ USD và trên 750 triệu USD. Còn lại là các ngành khác.

Nếu xét về số lượng dự án mới, ngành công nghiệp chế biến chế tạo, bán buôn bán lẻ và hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ dẫn đầu, chiếm lần lượt 33,2%, 28,2% và 14,9% tổng số dự án.

Theo đối tác đầu tư:

Đã có 94 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam trong 9 tháng đầu năm. Trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư gần 6,3 tỷ USD, chiếm 28,4% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, giảm 7,2% so với cùng kỳ 2020; Hàn Quốc vượt qua Nhật Bản[2], đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư trên 3,9 tỷ USD, chiếm 17,7% tổng vốn đầu tư, tăng 23,4% so với cùng kỳ[3]. Nhật Bản đứng thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 3,3 tỷ USD, chiếm 14,7% tổng vốn đầu tư, tăng 88,8% so với cùng kỳ[4]. Tiếp theo là Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,…

Trong 9 tháng 2021, vốn đầu tư của Singapore gấp 1,6 lần vốn đầu tư của Hàn Quốc và gấp gần 1,9 lần vốn đầu tư của Nhật Bản do Singapore có dự án lớn 3,1 tỷ USD. Riêng dự án này đã chiếm tới 49,3% tổng vốn đầu tư của Singapore. Hàn Quốc mặc dù chỉ xếp thứ 2 về vốn đầu tư, song lại là đối tác dẫn đầu về số dự án đầu tư mới, số lượt dự án điều chỉnh vốn cũng như số lượt GVMCP[5]. Như vậy, nếu xét về số lượng dự án, Hàn Quốc là đối tác có nhiều nhà đầu tư quan tâm và đưa ra các quyết định đầu tư mới cũng như mở rộng dự án đầu tư nhất trong 9 tháng.

Theo địa bàn đầu tư:

Các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 58 tỉnh, thành phố trên cả nước trong 9 tháng đầu năm. Long An dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 3,6 tỷ USD, chiếm 16,4% tổng vốn đầu tư đăng ký, trong đó có dự án điện lớn lên tới 3,1 tỷ USD (chiếm tới 85,3% tổng vốn đầu tư của Long An). Với dự án điều chỉnh vốn lớn 1,4 tỷ USD, Hải Phòng vượt lên đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký 2,7 tỷ USD, chiếm 12,2% tổng vốn đầu tư. TP Hồ Chí Minh đứng thứ 3 với gần 2,4 tỷ USD, chiếm 10,6% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt là Bình Dương, Cần Thơ, Quảng Ninh,..

          Nếu xét về số dự án, các nhà ĐTNN vẫn tập trung đầu tư nhiều tại các thành phố lớn, có cơ sở hạ tầng thuận lợi như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bắc Ninh. Trong đó, TP Hồ Chí Minh dẫn đầu cả về số dự án mới (33,3%), số lượt dự án điều chỉnh (17,4%) và GVMCP (59,5%). Hà Nội tuy không thuộc top 5 địa phương thu hút ĐTNN trong 9 tháng, song xếp thứ 2 về số dự án mới (21,1%), số lượt dự án điều chỉnh (14%) và GVMCP (11,9%).

(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục II kèm theo).

 Một số dự án lớn trong 9 tháng đầu năm 2021:

          (1) Dự án Nhà máy điện LNG Long An I và II (Singapore), tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD với mục tiêu truyền tải và phân phối điện, sản xuất điện tại Long An (cấp GCNĐKĐT ngày 19/3/2021).

(2) Dự án LG Display Hải Phòng (Hàn Quốc), điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 2,15 tỷ USD (trong đó điều chỉnh tăng 1,4 tỷ USD ngày 30/8/2021 và tăng 750 triệu USD ngày 04/02/2021).

(3) Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản), tổng vốn đăng ký trên 1,31 tỷ USD với mục tiêu xây dựng một nhà máy nhiệt điện nhằm đáp ứng nhu cầu cung cấp điện cho lưới điện khu vực và hệ thống điện quốc gia tại Cần Thơ (cấp GCNĐKĐT ngày 22/01/2021).

 (4) Dự án nhà máy sản xuất giấy Kraft Vina công suất 800.000 tấn/năm (Nhật Bản), tổng vốn đầu tư 611,4 triệu USD với mục tiêu sản xuất giấy kraft, giấy lót và giấy bao bì tại Vĩnh Phúc (cấp GCNĐKĐT ngày 23/7/2021).

(5) Dự án Nhà máy Công ty TNHH Polytex Far Eastern Việt Nam (Đài Loan), điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 610 triệu USD (GCNĐT điều chỉnh cấp ngày 13/5/2021).

2. Nhận xét về tình hình đầu tư nước ngoài trong 9 tháng đầu năm 2021.

- Vốn đầu tư thực hiện của các dự án ĐTNN trong 9 tháng đầu năm giảm 3,5% so với cùng kỳ và giảm 5,5 điểm phần trăm so với 8 tháng đầu năm[6]. Đại dịch covid-19 vẫn diễn biến phức tạp tiếp tục có tác động không nhỏ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp khu vực phía Nam.

- Vốn đầu tư đăng ký mới và vốn đầu tư điều chỉnh tiếp tục duy trì tăng và đạt mức tăng mạnh hơn so với 8 tháng đầu năm[7]. Tuy nhiên số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh vẫn giảm so với cùng kỳ (tương ứng 37,8% và 15%). Việc suy giảm số dự án này chủ yếu tập trung vào nhóm dự án quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD), trong khi số lượng các dự án quy mô lớn (trên 50 triệu USD) vẫn duy trì tăng mạnh trong 9 tháng năm 2021[8]. 

- Xuất nhập khẩu của khu vực ĐTNN tiếp tục tăng trong 9 tháng đầu năm. Khu vực ĐTNN xuất siêu gần 18,2 tỷ USD kể cả dầu thô. Tuy nhiên, mức xuất siêu của khu vực ĐTNN không đủ bù đắp phần nhập siêu 21,8 tỷ của khu vực trong nước. Vì vậy cả nước nhập siêu 3,6 tỷ USD trong 9 tháng. Mức độ nhập siêu của cả nước đã giảm chút ít so với 8 tháng[9], song vẫn tăng hơn so với 7 tháng và 6 tháng năm 2021, là dấu hiệu tiếp tục cảnh báo tác động tiêu cực và sức chống chịu của khu vực trong nước trước đại dịch.

Một số nguyên nhân làm giảm số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh và GVMCP

* Nguyên nhân khách quan:

- Dòng vốn ĐTNN toàn cầu suy giảm mạnh, làm ảnh hưởng đến dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam.

- Sự cạnh tranh trong thu hút ĐTNN giữa các quốc gia ngày càng gia tăng.

- Hoạt động M&A toàn cầu giảm sút.

* Nguyên nhân chủ quan:

- Chính sách thu hút đầu tư có chọn lọc của Việt Nam (giảm số lượng, tăng về chất lượng) làm loại bỏ các dự án quy mô nhỏ, ít giá trị gia tăng.

- Việc hạn chế nhập cảnh và chính sách cách ly dài ngày làm chững lại các đoàn chuyên gia và nhóm phát triển dự án vào Việt Nam khảo sát và làm các thủ tục đầu tư. Ngoài ra, việc phong tỏa nhà máy và hạn chế di chuyển của người lao động trong các KCN làm đình trệ sản xuất, giảm công suất và sản lượng, đứt gãy chuỗi cung ứng cũng góp phần làm ảnh hưởng đến tâm lý của các nhà đầu tư mới đang có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam.

- Do đóng cửa nhà máy, thiếu hụt lao động để sản xuất nên nhiều đơn hàng phải chuyển sang các địa bàn khác trong chuỗi cung ứng. Tuy đây chỉ là giải pháp tạm thời, nhưng nếu kéo dài tình trạng này thì có khả năng nhà đầu tư sẽ chuyển sản xuất sang nước khác.

3. Tình hình ĐTNN luỹ kế tới 20/09/2021

Tính lũy kế đến ngày 20/09/2021, cả nước có 34.141 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 403,2 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 245,14 tỷ USD, bằng 60,8% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.

- Theo ngành: các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với 238,2 tỷ USD, chiếm 59,1% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh bất động sản với gần 61,3 tỷ USD (chiếm 15,2% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với trên 33,9 tỷ USD (chiếm 8,4% tổng vốn đầu tư).

- Theo đối tác đầu tư: Hiện có 141 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký gần 73,8 tỷ USD (chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư). Nhật Bản đứng thứ hai với gần 63,9 tỷ USD (chiếm 15,8% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài Loan, Hồng Kông.

- Theo địa bàn: ĐTNN đã có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với gần 49,1 tỷ USD (chiếm 12,2% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Bình Dương với gần 36,9 tỷ USD (chiếm 9,1% tổng vốn đầu tư); Hà Nội với 36,7 tỷ USD (chiếm gần 9,1% tổng vốn đầu tư).

(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục III kèm theo)



[1] Vốn điều chỉnh trong 9 tháng tăng 23,3 điểm phần trăm so với 8 tháng năm 2021 do trong tháng 9 có dự án Samsung Display (Hải Phòng) điểu chỉnh vốn đầu tư thêm 1,4 tỷ USD.

[2] Hàn Quốc đứng thứ 3 (sau Singapore, Nhật Bản) trong 8 tháng năm 2021.

[3] Vốn đầu tư của Hàn Quốc trong 9 tháng (trong khi giảm trong 8 tháng) là do trong tháng 9 có dự án điều chỉnh vốn lớn 1,4 tỷ USD.

[4] Vốn đầu tư của Nhật Bản tăng mạnh so với cùng kỳ do có dự án điều chỉnh vốn lớn 1,31 tỷ USD.

[5] 9 tháng năm 2021, Hàn Quốc chiếm 21,6% số dự án mới (gấp 1,8 lần số dự án mới của Singapore); chiếm 28% số lượt dự án điều chỉnh vốn (gấp 3 lần số lượt điều chỉnh vốn của Singapore); chiếm 35,4% số lượt GVMCP (gấp 4,5 lần số lượt GVMCP của Singapore).

[6] 8 tháng đầu năm 2021, vốn thực hiện tăng 2% so với cùng kỳ năm 2020.

[7] 8 tháng đầu năm 2021, vốn đăng ký mới tăng 16,3% và vốn điều chỉnh tăng 2,3% so với cùng kỳ năm 2020.

[8] Trong 8 tháng năm 2021 số lượng dự án quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD) giảm 41,7%, trong khi số lượng các dự án quy mô lớn (trên 50 triệu USD) vẫn tăng 57% so với cùng kỳ 2020.

[9] 8 tháng đầu năm 2021 cả nước nhập siêu 3,7 tỷ USD

Theo Cục ĐTNN
Số lượt đọc: 6952

File đính kèm:

Thông báo