Tính đến 20/8/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh
và góp vốn mua cổ phần,
mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt 19,12 tỷ USD, bằng 97,9% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước
ngoài ước đạt 11,58 tỷ USD, tăng 2% so với cùng kỳ năm 2020.
Tính lũy kế đến ngày 20/8/2021, cả nước có 34.072 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký 400,6 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của
các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 243,44 tỷ USD, bằng 60,8% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Thông tin chi tiết như sau:
I. VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM
1. Tình hình thu hút ĐTNN
8
tháng năm 2021
1.1. Tình hình hoạt động
Vốn thực hiện:
Tính tới 20/08/2021, ước tính các dự án đầu
tư nước ngoài đã giải ngân được 11,58 tỷ USD, tăng 2% so với cùng kỳ năm 2020. Dịch covid diễn biến phức tạp trong tháng dẫn tới một
số nhà máy bị ngưng hoặc giảm công suất, vốn thực hiện trong tháng 8 giảm 12,2%
so với tháng 8/2020 và giảm 14,3% so với tháng trước. Tuy nhiên, tính cả 8 tháng
đầu năm vốn thực hiện vẫn tăng nhẹ.
Tình hình xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu: Kim
ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tiếp tục tăng trong 8 tháng đầu năm, song mức độ tăng giảm nhẹ so với 7
tháng. Xuất khẩu kể cả dầu thô ước đạt 156,9 tỷ USD, tăng 25,5% so với
cùng kỳ, chiếm 73,8%
kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt 155,9 tỷ USD, tăng 25,9% so với cùng
kỳ, chiếm 73,3% kim
ngạch xuất khẩu cả nước.
Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực
ĐTNN ước đạt 140,2 tỷ USD, tăng 36,4% so cùng kỳ và chiếm 64,8% kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Tính chung trong 8 tháng đầu năm 2021, khu vực ĐTNN xuất siêu gần 16,7 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu 15,6 tỷ USD không kể dầu thô. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu 20,4 tỷ USD.
1.2. Tình hình đăng ký đầu tư
Tính đến 20/08/2021, tổng vốn
đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt 19,1 tỷ USD, bằng 97,9% so với cùng kỳ năm 2020. Cùng với vốn đăng ký mới tiếp tục
duy trì tăng thì vốn điều chỉnh cũng đã tăng nhẹ trở lại sau khi giảm trong 7
tháng. Chỉ có GVMCP vẫn tiếp tục giảm, song mức giảm cũng đang được cải thiện
dần.
Trong đó:
Vốn đăng ký mới: Có 1.135
dự án mới
được cấp GCNĐKĐT (giảm 36,8%),
tổng vốn
đăng ký đạt gần 11,33 tỷ USD (tăng 16,3% so với cùng kỳ).
Vốn điều chỉnh: Có 639 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (giảm 11%), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt gần 5 tỷ USD (tăng 2,3% so với cùng kỳ).
Góp vốn, mua cổ phần: Có 2.720 lượt GVMCP của nhà ĐTNN (giảm 43,4%),
tổng giá trị
vốn góp đạt gần 2,81 tỷ USD (giảm 43,4% so với cùng kỳ).
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục I kèm theo).
Theo lĩnh vực đầu tư:
Các nhà đầu tư nước
ngoài đã đầu tư vào 18 ngành lĩnh
vực, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu
tư đạt gần 9,3 tỷ USD, chiếm 48,4% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực sản xuất, phân phối điện đứng thứ 2 với tổng
vốn đầu tư gần 5,5 tỷ USD, chiếm 28,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo
lần lượt là các lĩnh vực kinh
doanh bất động sản, bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đăng ký đạt gần 1,6 tỷ USD và trên 734 triệu USD. Còn lại là các
lĩnh vực khác.
Theo đối tác
đầu tư:
Đã có 92 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư
tại Việt Nam trong 8 tháng
đầu năm. Trong đó, Singapore dẫn
đầu với tổng vốn đầu tư trên
6,2 tỷ USD, chiếm gần 32,5% tổng vốn
đầu tư vào Việt Nam, giảm 5%
so với cùng kỳ 2020; Nhật
Bản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư trên 3,2 tỷ USD, chiếm 16,8% tổng vốn đầu tư, tăng 94,9% so với cùng kỳ. Vốn đầu tư của Singapore và Nhật Bản chủ yếu
theo hình thức đầu tư mới, chiếm lần lượt 79,4% và 73,9% tổng vốn đăng ký của 2
quốc gia này. Hàn Quốc đứng thứ 3 với tổng
vốn đầu tư đăng ký trên 2,4 tỷ USD, chiếm
12,7% tổng vốn đầu tư, giảm 17,8% so với cùng kỳ. Tiếp theo
là Trung Quốc, Hồng Kông, Đài
Loan,…
Trong 8 tháng 2021, vốn đầu tư của Singapore gấp 1,9 lần
vốn đầu tư của Nhật Bản và gấp gần 2,6 lần vốn đầu tư của Hàn Quốc do Singapore
có dự án lớn 3,1 tỷ USD. Riêng dự án này đã chiếm tới 50% tổng vốn đầu tư của
Singapore. Hàn Quốc mặc dù chỉ xếp thứ 3 về vốn đầu tư, song lại là đối tác dẫn
đầu về số dự án đầu tư mới cũng như số lượt dự án điều chỉnh vốn.
Như vậy, nếu xét về số lượng dự án, Hàn Quốc là đối tác có nhiều nhà đầu tư
quan tâm và đưa ra các quyết định đầu tư mới cũng như mở rộng dự án đầu tư nhất
trong 8 tháng.
Theo địa bàn đầu tư:
Các nhà ĐTNN đã đầu
tư vào 58 tỉnh, thành
phố trên cả nước trong 8 tháng
đầu năm. Long An dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 3,6 tỷ USD, chiếm 18,9% tổng vốn đầu tư đăng ký, trong đó có dự án điện lớn lên tới 3,1 tỷ USD (chiếm tới 85,8% tổng vốn đầu tư của Long
An). TP Hồ Chí Minh đứng
thứ 2 với tổng vốn đăng ký gần 2,2 tỷ USD, chiếm 11,4% tổng vốn đầu tư. Bình Dương đứng thứ 3 với gần 1,7 tỷ USD, chiếm 8,7% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt
là Cần Thơ, Hải Phòng, Hà Nội,..
Nếu xét về số dự án, các nhà ĐTNN vẫn
tập trung đầu tư nhiều tại các thành phố lớn, có cơ sở hạ tầng thuận lợi như
TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bắc Ninh. Trong đó, TP Hồ Chí Minh dẫn đầu cả về số dự
án mới (34%), số lượt dự án điều chỉnh (18,3%) và GVMCP (59,8%). Hà Nội tuy
không thuộc top 5 địa phương thu hút ĐTNN trong 8 tháng, song xếp thứ 2 về số
dự án mới (21,5%), số lượt dự án điều chỉnh (14,2%) và GVMCP (12,1%).
(Biểu số
liệu chi tiết tại Phụ lục II kèm theo).
Một số
dự án lớn trong 8 tháng đầu năm 2021:
(1) Dự án Nhà máy điện LNG Long An I
và II (Singapore), tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD với mục tiêu truyền tải và
phân phối điện, sản xuất điện tại Long An (cấp GCNĐKĐT ngày 19/3/2021).
(2) Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản), tổng vốn đăng ký trên
1,31 tỷ USD với mục tiêu xây dựng một nhà máy nhiệt điện nhằm đáp ứng nhu cầu
cung cấp điện cho lưới điện khu vực và hệ thống điện quốc gia tại Cần Thơ (cấp
GCNĐKĐT ngày 22/01/2021).
(3) Dự án LG Display Hải Phòng (Hàn Quốc), điều chỉnh tăng vốn đầu tư
thêm 750 triệu USD (GCNĐT điều chỉnh cấp ngày 04/02/2021).
(4) Dự án nhà máy sản xuất giấy Kraft Vina công suất 800.000 tấn/năm
(Nhật Bản), tổng vốn đầu tư 611,4 triệu USD với mục tiêu sản xuất giấy kraft,
giấy lót và giấy bao bì tại Vĩnh Phúc (cấp GCNĐKĐT ngày 23/7/2021).
(5) Dự án Nhà máy Công ty TNHH Polytex Far Eastern Việt Nam (Đài Loan),
điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 610 triệu USD (GCNĐT điều chỉnh cấp ngày
13/5/2021).
2. Nhận xét về tình
hình đầu tư nước ngoài trong 8 tháng đầu năm 2021.
- Vốn đầu tư
thực hiện của các dự án ĐTNN trong 8 tháng đầu năm tăng 2% so với cùng kỳ, giảm
1,8 điểm phần trăm so với 7 tháng đầu năm.
Đại dịch covid-19 vẫn diễn biến phức tạp tiếp tục có tác động không nhỏ tới
hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp khu vực phía Nam.
- Vốn đầu tư
điều chỉnh đã tăng trở lại sau khi giảm nhẹ trong 7 tháng (tăng 2,3%). Vốn đầu
tư đăng ký mới tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm 2020 và đạt mức tăng mạnh hơn
so với 7 tháng đầu năm (tăng 16,3%). Tuy số lượng dự án cấp mới, điều
chỉnh vẫn giảm so với cùng kỳ (tương ứng 36,8%
và 11%) song mức độ giảm cũng đang được cải thiện dần. Việc suy giảm số dự án này chủ yếu tập trung vào
nhóm dự án quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD), trong khi số lượng các dự án quy mô lớn
(trên 50 triệu USD) vẫn duy trì tăng mạnh trong 8 tháng năm 2021.
- Đầu tư theo phương thức GVMCP trong 8
tháng đầu năm 2021 vẫn tiếp tục giảm cả về số lượt GVMCP lẫn giá trị vốn góp,
song mức độ giảm cũng được cải thiện hơn.
- Xuất nhập khẩu
của khu vực ĐTNN tiếp tục tăng trong 8 tháng đầu năm. Khu vực ĐTNN xuất siêu 16,7 tỷ USD kể cả dầu
thô. Tuy nhiên, mức xuất siêu của khu vực ĐTNN không đủ bù đắp phần nhập siêu 20,4
tỷ của khu vực trong nước. Vì vậy cả nước nhập siêu 3,7 tỷ USD trong 8 tháng.
Mức độ nhập siêu của cả nước đang tăng dần so với các tháng trước,
càng cảnh báo hơn nữa tác động tiêu cực và sức chống chịu của khu vực trong
nước trước đại dịch.
Một số
nguyên nhân làm giảm số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh và GVMCP
* Nguyên nhân khách quan:
- Dòng vốn ĐTNN toàn cầu suy giảm mạnh, làm ảnh hưởng
đến dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam.
- Sự cạnh tranh
trong thu hút ĐTNN giữa các quốc gia ngày càng gia tăng.
- Hoạt động
M&A toàn cầu giảm sút.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Chính sách thu hút đầu tư có chọn lọc của Việt Nam
(giảm số lượng, tăng về chất lượng) làm loại bỏ các dự án quy mô nhỏ, ít giá
trị gia tăng.
-
Việc hạn chế nhập cảnh và chính sách cách
ly dài ngày làm chững lại các đoàn chuyên gia và nhóm phát triển dự án vào Việt
Nam khảo sát và làm các thủ tục đầu tư. Ngoài ra, việc phong tỏa nhà máy và hạn
chế di chuyển của người lao động trong các KCN làm đình trệ sản xuất, giảm công
suất và sản lượng, đứt gãy chuỗi cung ứng cũng góp phần làm ảnh hưởng đến tâm
lý của các nhà đầu tư mới đang có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam.
-
Do đóng cửa nhà máy, thiếu hụt lao động để sản xuất nên nhiều đơn hàng phải
chuyển sang các địa bàn khác trong chuỗi cung ứng. Tuy đây chỉ là giải pháp tạm
thời, nhưng nếu kéo dài tình trạng này thì có khả năng nhà đầu tư sẽ chuyển sản
xuất sang nước khác.
3. Tình hình
ĐTNN luỹ kế tới 20/08/2021
Tính lũy kế
đến ngày 20/08/2021, cả nước có 34.072 dự án còn hiệu lực với tổng vốn
đăng ký 400,6 tỷ
USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 243,44 tỷ USD, bằng 60,8% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.
- Theo lĩnh
vực: các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế
quốc dân, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao
nhất với 235,7 tỷ USD, chiếm 58,8% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 61,2 tỷ USD (chiếm
15,3%
tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với 33,9 tỷ USD (chiếm 8,5% tổng vốn đầu
tư).
- Theo đối tác đầu tư: Trong tháng
8/2021, có dự án mới đến từ nhà đầu tư Albania, nâng tổng số quốc gia, vùng
lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam lên 141. Trong đó, đứng đầu là Hàn
Quốc với tổng vốn đăng ký trên 72,3 tỷ USD (chiếm 18,1% tổng vốn đầu tư). Nhật Bản đứng thứ hai với 63,8 tỷ USD (chiếm 15,9% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài
Loan, Hồng Kông.
- Theo địa bàn: ĐTNN đã có mặt ở
tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với gần 49,1 tỷ
USD (chiếm 12,3% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Bình Dương với gần 36,9 tỷ USD (chiếm 9,2% tổng vốn đầu tư); Hà
Nội với gần 36,7 tỷ USD (chiếm gần 9,2% tổng vốn đầu tư).
(Biểu số
liệu chi tiết tại Phụ lục III kèm theo)
Trong 8 tháng
năm 2021 số lượng dự án quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD) giảm 41,2%,
trong khi số lượng các dự án quy mô lớn (trên
50 triệu USD) vẫn tăng 52,3% so với cùng kỳ 2020.