Tính lũy kế đến ngày 20/7/2021, cả nước có 33.967 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký 399 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của
các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 242,36 tỷ USD, bằng 60,7% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Thông tin chi tiết như sau:
I. VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM
1. Tình hình thu hút ĐTNN
7
tháng đầu năm 2021
1.1. Tình hình hoạt động
Vốn thực hiện:
Tính tới 20/07/2021, ước tính các dự án đầu
tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 10,5
tỷ USD, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2020. Dịch covid diễn biến phức tạp trong tháng dẫn tới một
số nhà máy bị ngưng hoặc giảm công suất, vốn thực hiện trong tháng 7 giảm 14,3%
so với tháng 7/2020 và giảm 39,7% so với tháng trước. Tuy nhiên, tính cả 7
tháng đầu năm vốn thực hiện vẫn tăng nhẹ.
Tình hình xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu: Kim
ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tiếp tục tăng trong 7 tháng đầu năm, song mức độ tăng giảm nhẹ so với 6
tháng. Xuất khẩu kể cả dầu thô ước đạt 135,8 tỷ USD, tăng 28,9% so với
cùng kỳ, chiếm 73,7%
kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt gần 135 tỷ USD, tăng 29,3% so với cùng
kỳ, chiếm 73,2% kim
ngạch xuất khẩu cả nước.
Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực
ĐTNN ước đạt 120,9 tỷ USD, tăng 37,6% so cùng kỳ và chiếm 64,7% kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Tính chung trong 7 tháng đầu năm 2021, khu vực ĐTNN xuất siêu gần 14,9 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu gần 14,1 tỷ USD không kể dầu thô. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu 17,4 tỷ USD.
1.2. Tình hình đăng ký đầu tư
Tính đến 20/07/2021, tổng vốn đăng
ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt 16,7 tỷ USD, bằng 88,9% so với cùng kỳ năm 2020. Ngoài vốn đầu tư đăng ký mới tăng
so với cùng kỳ thì cả vốn điều chỉnh và góp vốn, mua cổ phần đều giảm.
Trong đó:
Vốn đăng ký mới: Có 1.006
dự án mới
được cấp GCNĐKĐT (giảm 37,9%),
tổng vốn
đăng ký đạt 10,13 tỷ USD (tăng 7% so với cùng kỳ).
Vốn điều chỉnh: Có 561 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (giảm 9,4%),
tổng vốn
đăng ký tăng thêm đạt 4,54 tỷ USD (giảm 3,7% so với cùng kỳ).
Góp vốn, mua cổ phần: Có 2.403 lượt GVMCP của nhà ĐTNN (giảm 46,1%),
tổng giá trị
vốn góp đạt gần 2,05 tỷ USD (giảm 55,8% so với cùng kỳ).
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục I kèm theo
báo cáo).
Theo lĩnh vực đầu tư:
Các nhà đầu tư nước
ngoài đã đầu tư vào 18 ngành lĩnh
vực, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu
tư đạt trên 7,9 tỷ USD, chiếm 47,2% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực sản xuất, phân phối điện đứng thứ 2 với tổng
vốn đầu tư 5,49 tỷ USD, chiếm 32,8% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo
lần lượt là các lĩnh vực kinh
doanh bất động sản, bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đăng ký đạt 1,16 tỷ USD và gần 631 triệu USD. Còn lại là các
lĩnh vực khác.
Theo đối tác
đầu tư:
Đã có 86 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư
tại Việt Nam trong 7 tháng
đầu năm. Trong đó, Singapore dẫn
đầu với tổng vốn đầu tư 5,92
tỷ USD, chiếm gần 35,4% tổng vốn
đầu tư vào Việt Nam, giảm
7,8% so với cùng kỳ 2020; Nhật Bản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 2,54 tỷ USD, chiếm gần 15,2% tổng vốn đầu tư, tăng 58,2% so với cùng kỳ. Vốn đầu tư của Singapore và Nhật Bản chủ yếu
theo hình thức đầu tư mới, chiếm lần lượt 81% và 68,3% tổng vốn đăng ký của 2
quốc gia này. Hàn Quốc đứng thứ 3 với tổng
vốn đầu tư đăng ký gần 2,2 tỷ USD, chiếm
13,1% tổng vốn đầu tư, giảm 22,2% so với cùng kỳ. Tiếp theo
là Trung Quốc, Hồng Kông, Đài
Loan,…
Theo địa bàn đầu tư:
Các nhà ĐTNN đã đầu
tư vào 57 tỉnh, thành
phố trên cả nước trong 7 tháng
đầu năm. Long An dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,58 tỷ USD, chiếm 21,4% tổng vốn đầu tư đăng ký. TP Hồ Chí Minh đứng thứ 2 với tổng vốn đăng
ký 1,78 tỷ USD, chiếm 10,7% tổng vốn đầu tư. Bình Dương đứng thứ 3 với 1,33 tỷ USD, chiếm gần 8% tổng vốn đầu tư. Tiếp
theo lần lượt là Cần Thơ, Hải Phòng, Hà Nội,..
Một số dự án lớn trong 7 tháng đầu năm 2021:
(1) Dự án Nhà máy điện LNG Long An I
và II (Singapore), tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD với mục tiêu truyền tải và
phân phối điện, sản xuất điện tại Long An (cấp GCNĐKĐT ngày 19/3/2021).
(2) Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản), tổng vốn đăng ký trên
1,31 tỷ USD với mục tiêu xây dựng một nhà máy nhiệt điện nhằm đáp ứng nhu cầu
cung cấp điện cho lưới điện khu vực và hệ thống điện quốc gia tại Cần Thơ (cấp
GCNĐKĐT ngày 22/01/2021).
(3) Dự án LG Display Hải Phòng (Hàn Quốc), điều chỉnh tăng vốn đầu tư
thêm 750 triệu USD (GCNĐT điều chỉnh cấp ngày 04/02/2021).
(4) Dự án Nhà máy Công ty TNHH Polytex Far Eastern Việt Nam (Đài Loan),
điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 610 triệu USD (GCNĐT điều chỉnh cấp ngày
13/5/2021).
(5) Dự án Công nghệ tế bào quang điện Jinko Solar PV Việt Nam (Hồng
Kông), tổng vốn đầu tư đăng ký 498 triệu USD với mục tiêu sản xuất tấm quang năng
và sản xuất thiết bị điện khác tại Quảng Ninh (GCNĐKĐT ngày 29/3/2021).
2. Nhận xét về tình
hình đầu tư nước ngoài trong 7 tháng đầu năm 2021.
- Vốn đầu tư
thực hiện của các dự án ĐTNN trong 7 tháng đầu năm tăng 3,8% so với cùng kỳ,
giảm 3 điểm phần trăm so với 6 tháng đầu năm.
Đại dịch covid-19 diễn biến phức tạp đã có tác động không nhỏ tới hoạt động sản
xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp khu vực
phía Nam.
- Vốn đầu tư
đăng ký mới tiếp tục tăng trong 7 tháng đầu năm 2021 (tăng 7%), tuy nhiên vốn
đầu tư điều chỉnh giảm sau 6 tháng tăng liên tục. Số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh cũng vẫn giảm so
với cùng kỳ (tương ứng 37,9% và 9,4%) song
mức độ giảm đang được cải thiện dần. Việc suy
giảm số dự án này chủ yếu tập trung vào nhóm dự án quy mô nhỏ (dưới 50 triệu
USD), trong khi số lượng các dự án quy mô lớn (trên 50 triệu USD) vẫn duy trì
tăng mạnh trong 7 tháng năm 2021.
- Đầu tư theo phương thức GVMCP trong 7
tháng đầu năm 2021 vẫn tiếp tục giảm theo xu hướng chung của năm 2021 cả
về số lượt GVMCP lẫn giá trị vốn góp.
- Xuất nhập khẩu
của khu vực ĐTNN tiếp tục tăng trong 7 tháng đầu năm. Khu vực ĐTNN xuất siêu 14,9 tỷ USD kể cả dầu
thô. Tuy nhiên, mức xuất siêu của khu vực ĐTNN không đủ bù đắp phần nhập siêu 17,4
tỷ của khu vực trong nước. Vì vậy cả nước nhập siêu 2,5 tỷ USD trong 7 tháng.
Mức độ nhập siêu của cả nước tăng hơn so với 6 tháng đầu năm,
càng cảnh báo hơn nữa tác động tiêu cực và sức chống chịu của khu vực trong
nước trước đại dịch.
Một số
nguyên nhân làm giảm số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh và GVMCP
* Nguyên nhân khách quan:
- Dòng vốn ĐTNN toàn cầu suy giảm mạnh, làm ảnh hưởng
đến dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam.
- Sự cạnh tranh
trong thu hút ĐTNN giữa các quốc gia ngày càng gia tăng.
- Hoạt động
M&A toàn cầu giảm sút.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Chính sách thu hút đầu tư có chọn lọc của Việt Nam
(giảm số lượng, tăng về chất lượng) làm loại bỏ các dự án quy mô nhỏ, ít giá
trị gia tăng.
-
Việc hạn chế nhập cảnh và chính sách cách
ly dài ngày làm chững lại các đoàn chuyên gia và nhóm phát triển dự án vào Việt
Nam khảo sát và làm các thủ tục đầu tư. Ngoài ra, việc phong tỏa nhà máy và hạn
chế di chuyển của người lao động trong các KCN làm đình trệ sản xuất, giảm công
suất và sản lượng, đứt gãy chuỗi cung ứng cũng góp phần làm ảnh hưởng đến tâm
lý của các nhà đầu tư mới đang có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam.
-
Do đóng cửa nhà máy, thiếu hụt lao động để sản xuất nên nhiều đơn hàng phải
chuyển sang các địa bàn khác trong chuỗi cung ứng. Tuy đây chỉ là giải pháp tạm
thời, nhưng nếu kéo dài tình trạng này thì có khả năng nhà đầu tư sẽ chuyển sản
xuất sang nước khác.
3. Tình hình
ĐTNN luỹ kế tới 20/07/2021
Tính lũy kế
đến ngày 20/07/2021, cả nước có 33.967 dự án còn hiệu lực với tổng vốn
đăng ký 399 tỷ
USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 242,2 tỷ USD, bằng 60,7% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.
- Theo lĩnh
vực: các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế
quốc dân, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao
nhất với 233,7 tỷ USD, chiếm 58,7% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh bất động sản với gần 61,1 tỷ USD
(chiếm 15,3%
tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với 33,9 tỷ USD (chiếm 8,5% tổng vốn đầu
tư).
- Theo đối tác đầu tư: Có 140 quốc
gia, vùng lãnh thổ hiện có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn
Quốc với tổng vốn đăng ký 72,2 tỷ USD (chiếm 18,1% tổng vốn đầu tư). Nhật Bản đứng thứ hai với 63,2 tỷ USD (chiếm 15,8% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài
Loan, Hồng Kông.
- Theo địa bàn: ĐTNN đã có mặt ở
tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với trên 48,9 tỷ USD (chiếm 12,3% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Bình Dương với trên 36,8 tỷ USD (chiếm trên 9,2% tổng vốn đầu tư); Hà
Nội với 36,7 tỷ USD (chiếm 9,2% tổng vốn đầu tư).
II. VỀ ĐẦU
TƯ CỦA VIỆT NAM RA NƯỚC NGOÀI
Trong 7 tháng đầu
năm 2021, tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài cấp mới và tăng thêm đạt 570,1 triệu USD (tăng gần 2,3
lần so với cùng kỳ). Trong đó có 28 dự án được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới, với
tổng vốn đăng ký đạt 145,3 triệu USD
(bằng
70,4% so với cùng kỳ) và 11 lượt dự án điều chỉnh
vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm là 424,8 triệu USD (tăng 9,1 lần so với cùng kỳ).
Các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư
ra nước ngoài ở 12 lĩnh vực. Trong đó lĩnh vực hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ dẫn đầu với 3 lượt dự án điều chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm là 270,8 triệu USD, chiếm 47,5% tổng vốn đầu tư. Lĩnh vực bán buôn, bán lẻ đứng thứ 2, với tổng vốn đầu tư 148,6 triệu USD, chiếm 26,1%; tiếp theo là các lĩnh
vực nông, lâm nghiệp, thủy sản; hoạt động
hành chính và dịch vụ hỗ trợ,...
Có 18 quốc gia, vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2021. Dẫn đầu là Hoa Kỳ với 3 dự án đầu tư mới và 2 dự
án điều chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 302,8 triệu USD, chiếm 53,1% tổng vốn đầu tư. Đứng thứ hai là Campuchia với tổng vốn đầu tư 89,2 triệu USD,
chiếm 15,6% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt là Lào, Canada,… với vốn đầu tư
đạt 47,8 triệu USD và 32,1
triệu USD.
Lũy kế đến 20/07/2021, Việt Nam đã có
1.423 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư Việt Nam 21,8
tỷ USD. Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tập trung nhiều nhất vào các lĩnh vực
khai khoáng (36,3%); nông, lâm nghiệp, thủy sản (15,3%). Các địa bàn nhận đầu
tư của Việt Nam nhiều nhất lần lượt là Lào (23,8%); Campuchia (13,1%); Nga (12,9%);…
Trong 7 tháng
năm 2021 số lượng dự án quy mô nhỏ dưới 50 triệu USD giảm 38,8%, trong khi số lượng các dự án quy mô lớn
(trên 50 triệu USD) vẫn tăng 27,2% so
với cùng kỳ 2020.