Nếu như năm 2010 kim ngạch
xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) là 39 tỷ USD, chiếm là
54,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; năm 2011 (55,1 tỷ USD, chiếm 57% tổng
kim ngạch xuất khẩu cả nước), năm 2012 (72 tỷ USD, chiếm 64% tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước), năm 2013 (88 tỷ USD, chiếm 66,9% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước),
trong năm 2014 xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đạt mức cao nhất từ trước đến nay 101,59 tỷ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2013, chiếm 68% kim ngạch xuất khẩu của cả
nước. Ngoài
ra, nhập khẩu của khu vực FDI năm
2014 đạt 84,1 tỷ
USD, tăng 13,1%
so với cùng kỳ năm 2013 và chiếm 57% kim ngạch nhập khẩu. Tính chung cả
năm 2014, khu vực đầu tư nước
ngoài xuất siêu 17,02 tỷ USD.
Xuất khẩu của khu vực ĐTNN (kể cả dầu thô)
trong 4 tháng năm 2015 đạt 35,07 tỷ USD, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm 2014 và
chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhập khẩu của khu vực ĐTNN 4 tháng năm 2015
đạt 32,35 tỷ USD, tăng 27,8% so với cùng kỳ năm 2014 và chiếm 61% tổng kim ngạch
nhập khẩu. Tính chung trong 4 tháng đầu năm 2015, khu vực ĐTNN xuất siêu 2,719 tỷ
USD.
Như vậy, trong bối cảnh 4 tháng năm 2015 nền
kinh tế Việt Nam nhập siêu 3 tỷ USD thì khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vẫn
xuất khẩu mạnh, xuất siêu 2,7 tỷ, đóng
góp 70% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của các doanh nghiệp khu vực đầu tư nước ngoài là: điện thoại các loại
& linh kiện, máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện, giày dép, dệt
may… Đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu mặt hàng điện thoại và linh kiện, khu
vực đầu tư nước ngoài gần như chiếm thế độc tôn, điển hình là dự án sản xuất
điện thoại của Samsung.
Trong
thời gian tới, với việc tỷ trọng
các dự án FDI trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đang ngày càng tăng,
đặc biệt một số dự án lớn để sản xuất hàng xuất khẩu đang tích cực giải ngân, mở
rộng sản xuất, dự kiến khu vực doanh nghiệp FDI vẫn tiếp tục giữ vị trí đầu tàu
trong việc tạo ra giá trị xuất khẩu.
Việc khối doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng lớn trong kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng dễ hiểu bởi các doanh nghiệp FDI có có tiềm lực tài chính mạnh, đặc biệt là có lợi thế
về thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, nhóm
hàng xuất khẩu lớn mà doanh nghiệp FDI đang giành lợi thế phần lớn lại là gia
công, lắp ráp. Do vậy, xuất khẩu nhiều, mà nhập khẩu cũng nhiều. Trong
thời gian tới, cần phải nghiên cứu kỹ xu hướng các doanh nghiệp FDI xuất khẩu lớn,
nhưng gia công nhiều, để làm sao tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước
đầu tư chiều sâu, đáp ứng nhu cầu nguyên, phụ liệu cho khối doanh nghiệp này.