BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
CỤC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Thứ Bảy, 23/11/2024
Tình hình đầu tư
Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2021
Thứ Sáu, 24/12/2021 06:10
Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2021

Tính đến 20/12/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 19,74 tỷ USD, giảm nhẹ 1,2% so với cùng kỳ năm 2020.

Tính đến 20/12/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 19,74 tỷ USD, giảm nhẹ 1,2% so với cùng kỳ năm 2020.

Tính lũy kế đến ngày 20/12/2021, cả nước có 34.527 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 408,1 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 251,6 tỷ USD, bằng 61,7% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.

Thông tin chi tiết như sau:

I. VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

1. Tình hình thu hút ĐTNN năm 2021

1.1. Tình hình hoạt động

Vốn thực hiện:

Ước tính các dự án đầu tư nước ngoài đã giải ngân được 19,74 tỷ USD trong năm 2021, giảm nhẹ 1,2% so với cùng kỳ năm 2020, tăng 3 điểm phần trăm so với 11 tháng năm 2021.

Tình hình xuất, nhập khẩu:

Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng trong cả năm 2021 và tăng 1 điểm phần trăm so với 11 tháng[1]. Xuất khẩu kể cả dầu thô ước đạt trên 246,7 tỷ USD, tăng 20,7% so với cùng kỳ, chiếm 73,6% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt trên 245 tỷ USD, tăng 20,8% so với cùng kỳ, chiếm 73,1% kim ngạch xuất khẩu cả nước.

Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực ĐTNN ước đạt gần 218,3 tỷ USD, tăng 29,2% so cùng kỳ và chiếm 65,7% kim ngạch nhập khẩu cả nước.

Tính chung trong cả năm 2021, khu vực ĐTNN xuất siêu gần 28,5 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu trên 26,7 tỷ USD không kể dầu thô. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu 25,5 tỷ USD.

1.2. Tình hình đăng ký đầu tư

Tính đến 20/12/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và GVMCP của nhà ĐTNN đạt trên 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2020. Cả vốn đăng ký mới và vốn điều chỉnh đều tăng so với cùng kỳ. GVMCP tuy vẫn giảm song mức giảm đã cải thiện rất nhiều so với các tháng trước. Cụ thể:

Vốn đăng ký mới: Có 1.738 dự án mới được cấp GCNĐKĐT (giảm 31,1%), tổng vốn đăng ký đạt trên 15,2 tỷ USD (tăng 4,1% so với cùng kỳ).

Vốn điều chỉnh: Có 985 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (giảm 13,6%), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt trên 9 tỷ USD (tăng 40,5% so với cùng kỳ).

Góp vốn, mua cổ phần: Có 3.797 lượt GVMCP của nhà ĐTNN (giảm 38,2%), tổng giá trị vốn góp đạt gần 6,9 tỷ USD (giảm 7,7% so với cùng kỳ).

 (Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục I kèm theo).

  Theo ngành:

Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt trên 18,1 tỷ USD, chiếm 58,2% tổng vốn đầu tư đăng ký. Ngành sản xuất, phân phối điện mặc dù thu hút được số lượng dự án mới, điều chỉnh cũng như GVMCP không nhiều, song có dự án có quy mô vốn lớn nên đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư trên 5,7 tỷ USD, chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo lần lượt là các ngành kinh doanh bất động sản; bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đăng ký đạt lần lượt là trên 2,6 tỷ USD và trên 1,4 tỷ USD. Còn lại là các ngành khác.

Cơ cấu ĐTNN năm 2021 theo ngành

 

Nếu xét về số lượng dự án mới thì công nghiệp chế biến chế tạo, bán buôn bán lẻ và hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ là các ngành thu hút được nhiều dự án nhất, chiếm lần lượt 30,7%, 28,1% và 16,7% tổng số dự án.

Theo đối tác:

Đã có 106 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam trong năm 2021. Trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư trên 10,7 tỷ USD, chiếm 34,4% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, tăng 19,1% so với cùng kỳ 2020; Hàn Quốc đứng thứ hai với gần 5 tỷ USD[2], chiếm 15,9% tổng vốn đầu tư, tăng 25,4% so với cùng kỳ. Nhật Bản đứng thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 3,9 tỷ USD[3], chiếm 12,5% tổng vốn đầu tư, tăng 64,6% so với cùng kỳ. Tiếp theo là Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,…

Trong năm 2021, vốn đầu tư của Singapore gấp gần 2,2 lần vốn đầu tư của Hàn Quốc và gấp hơn 2,7 lần vốn đầu tư của Nhật Bản do Singapore có 01 dự án đầu tư mới và 01 trường hợp GVMCP có vốn đầu tư lớn[4]. Riêng hai dự án này đã chiếm trên 49% tổng vốn đầu tư của Singapore. Hàn Quốc mặc dù chỉ xếp thứ 2 về vốn đầu tư, song lại là đối tác dẫn đầu về số dự án đầu tư mới, số lượt dự án điều chỉnh vốn cũng như số lượt GVMCP[5]. Như vậy, nếu xét về số lượng dự án, Hàn Quốc là đối tác có nhiều nhà đầu tư quan tâm và đưa ra các quyết định đầu tư mới cũng như mở rộng dự án đầu tư nhất trong năm 2021.

Cơ cấu ĐTNN năm 2021 theo đối tác

 

Theo địa bàn:

Các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 59 tỉnh, thành phố trên cả nước trong năm 2021. Hải Phòng vượt qua Long An vươn lên dẫn đầu trong cả năm với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 5,26 tỷ USD, chiếm 16,9% tổng vốn đầu tư đăng ký và gấp gần 3,5 lần so với cùng kỳ năm 2020[6]. Long An xếp thứ hai với trên 3,84 tỷ USD, chiếm 12,3% tổng vốn đầu tư cả nước[7]. TP Hồ Chí Minh đứng vị trí thứ ba với gần 3,74 tỷ USD, chiếm gần 12% tổng vốn đầu tư, giảm 14,2% so với cùng kỳ. Tiếp theo lần lượt là Bình Dương, Bắc Ninh, Hà Nội,…

          Nếu xét về số dự án, các nhà ĐTNN vẫn tập trung đầu tư nhiều tại các thành phố lớn, có cơ sở hạ tầng thuận lợi như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bắc Ninh. Trong đó, TP Hồ Chí Minh dẫn đầu cả về số dự án mới (29,2%), số lượt dự án điều chỉnh (18,1%) và GVMCP (60,3%). Hà Nội tuy không thuộc top 5 địa phương thu hút ĐTNN trong năm, song xếp thứ 2 về số dự án mới (16,7%) và số lượt GVMCP (12,2%).

Cơ cấu ĐTNN năm 2021 theo địa phương

 

(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục II kèm theo).

 Một số dự án ĐTNN lớn trong năm 2021:

          (1) Dự án Nhà máy điện LNG Long An I và II (Singapore), tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD với mục tiêu truyền tải và phân phối điện, sản xuất điện tại Long An (cấp GCNĐKĐT ngày 19/3/2021).

(2) Dự án LG Display Hải Phòng (Hàn Quốc), điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 2,15 tỷ USD (trong đó điều chỉnh tăng 1,4 tỷ USD ngày 30/8/2021 và tăng 750 triệu USD ngày 04/02/2021).

(3) Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản), tổng vốn đăng ký trên 1,31 tỷ USD với mục tiêu xây dựng một nhà máy nhiệt điện nhằm đáp ứng nhu cầu cung cấp điện cho lưới điện khu vực và hệ thống điện quốc gia tại Cần Thơ (cấp GCNĐKĐT ngày 22/01/2021).

 (4) Dự án nhà máy sản xuất giấy Kraft Vina công suất 800.000 tấn/năm (Nhật Bản), tổng vốn đầu tư 611,4 triệu USD với mục tiêu sản xuất giấy kraft, giấy lót và giấy bao bì tại Vĩnh Phúc (cấp GCNĐKĐT ngày 23/7/2021).

(5) Dự án Nhà máy Công ty TNHH Polytex Far Eastern Việt Nam (Đài Loan), điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 610 triệu USD (GCNĐT điều chỉnh cấp ngày 13/5/2021).

2. Nhận xét về tình hình đầu tư nước ngoài năm 2021.

- Vốn đầu tư thực hiện của các dự án ĐTNN 12 tháng năm 2021 tăng 3 điểm phần trăm so với 11 tháng năm 2021, song vẫn giảm nhẹ 1,2% so với năm 2020[8]. Chính phủ và các cơ quan chức năng đã kịp thời vào cuộc, ban hành nhiều giải pháp, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp cũng như các quy định, hướng dẫn thích ứng với tình hình mới của đại dịch Covid-19[9]. Các doanh nghiệp đang dần khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Vốn đầu tư đăng ký mới và điều chỉnh đều tăng so với năm 2020, đặc biệt vốn điều chỉnh tăng mạnh tới 40,5%. Giá trị GVMCP tuy giảm mạnh ở những tháng đầu năm song đã cải thiện dần trong các tháng cuối năm nên cả năm 2021 giá trị GVMCP chỉ giảm 7,7% so với năm 2020.

- Số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh và số lượt GVMCP đều giảm so với năm 2020. Sự suy giảm các dự án đầu tư mới chủ yếu tập trung vào nhóm dự án quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD và dưới 1 triệu USD)[10]. Việc tăng vốn đầu tư cấp mới, vốn đầu tư điều chỉnh và giảm số lượng dự án cho thấy quy mô vốn đầu tư bình quân/dự án đầu tư mới cũng như điều chỉnh đều tăng lên so với cùng kỳ năm 2020[11].

- Xuất nhập khẩu của khu vực ĐTNN năm 2021 tăng liên tục ở các tháng và trong cả năm. Khu vực ĐTNN xuất siêu gần 28,5 tỷ USD kể cả dầu thô đã bù đắp được phần nhập siêu 25,5 tỷ USD của khu vực doanh nghiệp trong nước làm cho cả nước xuất siêu 3 tỷ USD trong cả năm 2021.

Một số nguyên nhân làm giảm số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh và GVMCP

* Nguyên nhân khách quan:

- Dòng vốn ĐTNN toàn cầu nửa đầu năm 2021 phục hồi tốt hơn dự kiến[12], tuy nhiên niềm tin của nhà đầu tư vào ngành và chuỗi giá trị toàn cầu vẫn còn lung lay. Số lượng các dự án mới trong các ngành thâm dụng vào chuỗi giá trị toàn cầu (như điện tử, ô tô và hóa chất) đều giảm[13].

- Sự cạnh tranh trong thu hút ĐTNN giữa các quốc gia ngày càng gia tăng. Áp lực cạnh tranh trong thu hút ĐTNN lớn, đặc biệt là đối với các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển.

* Nguyên nhân chủ quan:

- Chính sách thu hút đầu tư có chọn lọc của Việt Nam (giảm số lượng, tăng về chất lượng) làm loại bỏ các dự án quy mô nhỏ, ít giá trị gia tăng.

- Việc hạn chế nhập cảnh và chính sách cách ly dài ngày trong những tháng dịch covid-19 bùng phát trở lại ở Việt Nam làm chững lại các đoàn chuyên gia và nhóm phát triển dự án vào Việt Nam khảo sát và làm các thủ tục đầu tư. Ngoài ra, việc phong tỏa nhà máy và hạn chế di chuyển của người lao động trong các KCN làm đình trệ sản xuất, giảm công suất và sản lượng, đứt gãy chuỗi cung ứng cũng góp phần làm ảnh hưởng đến tâm lý của các nhà đầu tư mới đang có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam.

3. Tình hình ĐTNN luỹ kế tới 20/12/2021

Tính lũy kế đến ngày 20/12/2021, cả nước có 34.527 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 408,1 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 251,6 tỷ USD, bằng 61,7% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.

- Theo ngành: các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với trên 241,9 tỷ USD, chiếm 59,3% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh bất động sản với gần 61,8 tỷ USD (chiếm 15,1% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với gần 33,9 tỷ USD (chiếm 8,3% tổng vốn đầu tư).

- Theo đối tác đầu tư: Hiện có 140 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký gần 74,7 tỷ USD (chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư). Nhật Bản đứng thứ hai với gần 64,4 tỷ USD (chiếm 15,8% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài Loan, Hồng Kông.

- Theo địa bàn: ĐTNN đã có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với gần 49,5 tỷ USD (chiếm 12,1% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Bình Dương với gần 37,2 tỷ USD (chiếm 9,1% tổng vốn đầu tư); Hà Nội với trên 37 tỷ USD (chiếm gần 9,1% tổng vốn đầu tư).

(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục III kèm theo)



[1]  11 tháng năm 2021, xuất khẩu kể cả dầu thô tăng 19,7%; xuất khẩu không kể dầu thô tăng 20,3%.

[2] Vốn đầu tư của Hàn Quốc chủ yếu là vốn đầu tư mở rộng dự án hiện hữu (63,9% số vốn) và đầu tư mới (24,2% số vốn). GVMCP chỉ chiếm 11,9% vốn đầu tư của Hàn Quốc.

[3] Vốn đầu tư của Nhật Bản chủ yếu là vốn đầu tư mới (71,6% số vốn) và mở rộng dự án hiện hữu (22,1% số vốn). GVMCP chỉ chiếm 6,3% vốn đầu tư của Nhật.

[4] Dự án Nhà máy điện LNG Long An I và II (Singapore) có vốn đầu tư trên 3,1 tỷ USD và trường hợp GVMCP của Vinfast Trading & Investment Pte. Ltd (Singapore) vào công ty Công ty TNHH Sản xuất và Kinh doanh Vinfast 2,19 tỷ USD.

[5] Năm 2021, Hàn Quốc chiếm 20,8% số dự án mới (gấp trên 1,6 lần số dự án mới của Singapore); chiếm 28,4% số lượt dự án điều chỉnh vốn (gấp 3 lần số lượt điều chỉnh vốn của Singapore); chiếm 34,3% số lượt GVMCP (gấp trên 3,9 lần số lượt GVMCP của Singapore).

[6] Vốn đầu tư của Hải Phòng chủ yếu đầu tư mở rộng dự án hiện hữu (51,8% vốn) và GVMCP (42,1% vốn)

[7] Trong đó có dự án điện lớn lên tới 3,1 tỷ USD (chiếm tới 80,7% tổng vốn đầu tư của Long An).

[8] 11 tháng năm 2021, vốn đầu tư thực hiện giảm 4,2% so với cùng kỳ.

[9] Nghị quyết 105/NQ-CP ngày 9/9/2021 về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch covid - 19; Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 ban hành quy định tạm thời “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch covid – 19”.

[10] Trong năm 2021, số lượng dự án quy mô nhỏ dưới 5 triệu USD giảm 33,9% , các dự án có quy mô nhỏ dưới 1 triệu USD giảm 33,2% so với cùng kỳ năm 2020.

[11] Năm 2021, quy mô vốn bình quân dự án đầu tư mới gần 8,8 triệu USD/dự án, cao hơn so với mức 5,8 triệu USD/dự án của năm 2020. Quy mô bình quân dự án điệu chỉnh vốn gần 9,2 triệu USD/lượt điều chỉnh, cao hơn so với mức 5,6 triệu USD/lượt điều chỉnh của năm 2020.

[12] Vốn FDI toàn cầu nửa đầu năm 2021 đạt 852 tỷ USD cho thấy đà phục hồi tốt hơn dự kiến. Các nền kinh tế phát triển ghi nhận mức tăng lớn nhất với dòng vốn ĐTNN ước tính đạt 424 tỷ USD trong nửa đầu năm 2021, gấp hơn ba lần so với mức đặc biệt thấp vào năm 2020 (theo UNCTAD).

[13] Theo Giám sát Xu hướng Đầu tư của Hội nghị Liên hợp quốc tế về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) công bố.

Theo Cục ĐTNN
Số lượt đọc: 32659

File đính kèm:

Thông báo