Tính đến 20/12/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh
và góp vốn mua cổ phần,
mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn
thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 19,74 tỷ USD, giảm nhẹ 1,2%
so với cùng kỳ năm 2020.
Tính lũy kế đến ngày 20/12/2021, cả nước có 34.527 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký gần 408,1 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của
các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt
251,6
tỷ USD, bằng 61,7% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Thông tin chi tiết như sau:
I. VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM
1. Tình hình thu hút ĐTNN
năm 2021
1.1. Tình hình hoạt động
Vốn thực hiện:
Ước
tính các dự án đầu tư nước ngoài đã giải ngân được 19,74 tỷ USD trong năm
2021, giảm nhẹ 1,2% so với cùng kỳ năm 2020, tăng 3 điểm
phần trăm so với 11 tháng năm 2021.
Tình hình xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu: Kim
ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng trong cả năm 2021 và tăng 1 điểm phần trăm so với 11 tháng. Xuất
khẩu kể cả dầu thô ước
đạt trên 246,7 tỷ USD, tăng 20,7% so với cùng
kỳ, chiếm 73,6%
kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt trên 245 tỷ USD, tăng 20,8% so với cùng
kỳ, chiếm 73,1% kim
ngạch xuất khẩu cả nước.
Nhập khẩu: Nhập khẩu của khu vực
ĐTNN ước đạt gần 218,3 tỷ USD, tăng 29,2% so cùng kỳ và chiếm 65,7% kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Tính chung trong cả năm 2021, khu vực ĐTNN xuất siêu gần 28,5 tỷ USD kể cả dầu thô và
xuất siêu trên 26,7 tỷ USD không kể dầu thô. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập
siêu 25,5 tỷ USD.
1.2. Tình hình đăng ký đầu tư
Tính đến 20/12/2021, tổng vốn
đăng ký cấp mới, điều chỉnh và GVMCP của nhà ĐTNN đạt trên 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng
kỳ năm 2020. Cả vốn đăng ký mới và vốn điều
chỉnh đều tăng so với cùng kỳ. GVMCP tuy vẫn giảm song mức giảm đã cải thiện
rất nhiều so với các tháng trước. Cụ thể:
Vốn đăng ký mới: Có 1.738
dự án mới
được cấp GCNĐKĐT (giảm 31,1%),
tổng vốn
đăng ký đạt trên 15,2 tỷ USD (tăng 4,1% so với cùng kỳ).
Vốn điều chỉnh: Có 985 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (giảm 13,6%),
tổng vốn
đăng ký tăng thêm đạt trên 9 tỷ USD (tăng 40,5% so với cùng kỳ).
Góp vốn, mua cổ phần: Có 3.797 lượt GVMCP của nhà ĐTNN (giảm 38,2%),
tổng giá trị
vốn góp đạt gần 6,9 tỷ USD (giảm 7,7% so với cùng kỳ).
(Biểu số liệu chi tiết tại Phụ lục I kèm theo).
Theo ngành:
Các nhà đầu tư nước
ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt trên 18,1 tỷ USD, chiếm 58,2% tổng vốn đầu tư
đăng ký. Ngành sản xuất, phân phối điện mặc dù thu hút được số lượng dự án mới,
điều chỉnh cũng như GVMCP không nhiều, song có dự án có quy mô vốn lớn nên đứng thứ 2
với tổng vốn đầu tư trên 5,7 tỷ USD, chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo
lần lượt là các ngành kinh
doanh bất động sản; bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đăng ký đạt lần lượt là trên 2,6 tỷ USD và trên 1,4 tỷ USD. Còn lại là các ngành khác.
Cơ cấu ĐTNN năm 2021 theo
ngành
Nếu xét về số lượng dự án mới thì công nghiệp chế biến chế
tạo, bán buôn bán lẻ và hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ là các ngành
thu hút được nhiều dự án nhất, chiếm lần lượt 30,7%, 28,1% và 16,7% tổng số dự
án.
Theo đối tác:
Đã có 106 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư
tại Việt Nam trong năm 2021. Trong đó, Singapore dẫn
đầu với tổng vốn đầu tư trên
10,7 tỷ USD, chiếm 34,4% tổng vốn
đầu tư vào Việt Nam, tăng
19,1% so với cùng kỳ 2020; Hàn Quốc đứng thứ hai với gần 5 tỷ USD,
chiếm 15,9% tổng vốn đầu
tư, tăng 25,4% so với cùng kỳ. Nhật Bản đứng thứ 3 với tổng
vốn đầu tư đăng ký gần 3,9 tỷ USD,
chiếm 12,5% tổng vốn
đầu tư, tăng 64,6% so với
cùng kỳ. Tiếp theo là Trung
Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,…
Trong năm 2021, vốn đầu tư của Singapore gấp gần 2,2 lần
vốn đầu tư của Hàn Quốc và gấp hơn 2,7 lần vốn đầu tư của Nhật Bản do Singapore
có 01 dự án đầu tư mới và 01 trường hợp GVMCP có vốn đầu tư lớn.
Riêng hai dự án này đã chiếm trên 49% tổng vốn đầu tư của Singapore. Hàn Quốc
mặc dù chỉ xếp thứ 2 về vốn đầu tư, song lại là đối tác dẫn đầu về số dự án đầu
tư mới, số lượt dự án điều chỉnh vốn cũng như số lượt GVMCP.
Như vậy, nếu xét về số lượng dự án, Hàn Quốc là đối tác có nhiều nhà đầu tư
quan tâm và đưa ra các quyết định đầu tư mới cũng như mở rộng dự án đầu tư nhất
trong năm 2021.
Cơ cấu ĐTNN năm 2021 theo
đối tác
Theo địa bàn:
Các nhà ĐTNN đã đầu
tư vào 59 tỉnh, thành
phố trên cả nước trong năm
2021. Hải Phòng vượt qua Long
An vươn lên dẫn đầu trong cả năm với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 5,26 tỷ USD, chiếm 16,9% tổng vốn đầu tư đăng ký và gấp gần 3,5 lần so với cùng kỳ năm 2020.
Long An xếp thứ hai với trên 3,84 tỷ USD, chiếm 12,3% tổng vốn đầu tư cả nước. TP Hồ Chí Minh đứng vị trí thứ ba với gần 3,74 tỷ USD, chiếm gần 12% tổng vốn đầu tư, giảm 14,2% so với cùng kỳ. Tiếp
theo lần lượt là
Bình Dương, Bắc Ninh, Hà Nội,…
Nếu xét về số dự án, các nhà ĐTNN vẫn
tập trung đầu tư nhiều tại các thành phố lớn, có cơ sở hạ tầng thuận lợi như
TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bắc Ninh. Trong đó, TP Hồ Chí Minh dẫn đầu cả về số dự
án mới (29,2%), số lượt dự án điều chỉnh (18,1%) và GVMCP (60,3%). Hà Nội tuy
không thuộc top 5 địa phương thu hút ĐTNN trong năm, song xếp thứ 2 về số dự án
mới (16,7%) và số lượt GVMCP (12,2%).
Cơ cấu ĐTNN năm 2021 theo
địa phương
(Biểu số
liệu chi tiết tại Phụ lục II kèm theo).
Một số
dự án ĐTNN lớn trong năm 2021:
(1) Dự án Nhà máy điện LNG Long An I
và II (Singapore), tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD với mục tiêu truyền tải và
phân phối điện, sản xuất điện tại Long An (cấp GCNĐKĐT ngày 19/3/2021).
(2) Dự án LG Display Hải Phòng (Hàn Quốc), điều chỉnh tăng vốn đầu tư
thêm 2,15 tỷ USD (trong đó điều chỉnh tăng 1,4 tỷ USD ngày 30/8/2021 và tăng
750 triệu USD ngày 04/02/2021).
(3) Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản), tổng vốn đăng ký trên
1,31 tỷ USD với mục tiêu xây dựng một nhà máy nhiệt điện nhằm đáp ứng nhu cầu
cung cấp điện cho lưới điện khu vực và hệ thống điện quốc gia tại Cần Thơ (cấp
GCNĐKĐT ngày 22/01/2021).
(4) Dự án nhà máy sản xuất giấy
Kraft Vina công suất 800.000 tấn/năm (Nhật Bản), tổng vốn đầu tư 611,4 triệu
USD với mục tiêu sản xuất giấy kraft, giấy lót và giấy bao bì tại Vĩnh Phúc
(cấp GCNĐKĐT ngày 23/7/2021).
(5) Dự án Nhà máy Công ty TNHH Polytex Far Eastern Việt Nam (Đài Loan),
điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 610 triệu USD (GCNĐT điều chỉnh cấp ngày
13/5/2021).
2. Nhận xét về tình
hình đầu tư nước ngoài năm 2021.
- Vốn đầu tư
thực hiện của các dự án ĐTNN 12 tháng năm 2021 tăng 3 điểm phần trăm so với 11
tháng năm 2021, song vẫn giảm nhẹ 1,2% so với năm 2020.
Chính phủ và các cơ quan chức năng đã kịp
thời vào cuộc, ban hành nhiều giải pháp, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc cho các doanh nghiệp cũng như các quy định, hướng dẫn thích ứng với
tình hình mới của đại dịch Covid-19. Các doanh nghiệp đang dần khôi phục hoạt động
sản xuất kinh doanh.
- Vốn đầu tư
đăng ký mới và điều chỉnh đều tăng so với năm 2020, đặc biệt vốn điều chỉnh
tăng mạnh tới 40,5%. Giá trị GVMCP
tuy giảm mạnh ở những tháng đầu năm song đã cải thiện dần trong các tháng cuối
năm nên cả năm 2021 giá trị GVMCP chỉ giảm 7,7% so với năm 2020.
- Số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh và số lượt GVMCP
đều giảm so với năm 2020. Sự suy giảm các dự án đầu tư mới
chủ yếu tập trung vào nhóm dự án quy mô nhỏ (dưới
5 triệu USD và dưới 1 triệu USD).
Việc tăng vốn đầu tư cấp mới, vốn đầu tư điều chỉnh và giảm số lượng dự án cho
thấy quy mô vốn đầu tư bình quân/dự án đầu tư mới cũng như điều chỉnh đều tăng
lên so với cùng kỳ năm 2020.
- Xuất nhập khẩu
của khu vực ĐTNN năm 2021 tăng liên tục ở các tháng và trong cả năm. Khu vực ĐTNN xuất siêu gần 28,5 tỷ USD kể cả dầu thô đã bù đắp được phần nhập siêu 25,5 tỷ USD của khu vực
doanh nghiệp trong nước làm cho cả nước xuất siêu 3 tỷ USD trong cả năm 2021.
Một số
nguyên nhân làm giảm số lượng dự án cấp mới, điều chỉnh và GVMCP
* Nguyên nhân khách quan:
- Dòng vốn ĐTNN toàn cầu nửa đầu năm 2021 phục hồi tốt
hơn dự kiến, tuy
nhiên niềm tin của nhà đầu tư vào ngành
và chuỗi giá trị toàn cầu vẫn còn lung lay. Số lượng các dự án mới trong các
ngành thâm dụng vào chuỗi giá trị toàn cầu (như điện tử, ô tô và hóa chất) đều
giảm.
- Sự cạnh tranh
trong thu hút ĐTNN giữa các quốc gia ngày càng gia tăng. Áp lực cạnh tranh
trong thu hút ĐTNN lớn, đặc biệt là đối với các nền kinh tế mới nổi và đang
phát triển.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Chính sách thu hút đầu tư có chọn lọc của Việt Nam
(giảm số lượng, tăng về chất lượng) làm loại bỏ các dự án quy mô nhỏ, ít giá
trị gia tăng.
-
Việc hạn chế nhập cảnh và chính sách cách
ly dài ngày trong những tháng dịch covid-19 bùng phát trở lại ở Việt Nam làm
chững lại các đoàn chuyên gia và nhóm phát triển dự án vào Việt Nam khảo sát và
làm các thủ tục đầu tư. Ngoài ra, việc phong tỏa nhà máy và hạn chế di chuyển
của người lao động trong các KCN làm đình trệ sản xuất, giảm công suất và sản
lượng, đứt gãy chuỗi cung ứng cũng góp phần làm ảnh hưởng đến tâm lý của các
nhà đầu tư mới đang có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam.
3. Tình hình
ĐTNN luỹ kế tới 20/12/2021
Tính lũy kế
đến ngày 20/12/2021, cả nước có 34.527 dự án còn
hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 408,1 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư
nước ngoài ước đạt 251,6 tỷ USD, bằng 61,7% tổng vốn
đăng ký còn hiệu lực.
- Theo ngành: các nhà
ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với trên 241,9 tỷ USD, chiếm 59,3% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các lĩnh vực kinh doanh bất động sản với gần 61,8 tỷ USD
(chiếm 15,1%
tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với gần 33,9 tỷ USD (chiếm 8,3% tổng vốn đầu
tư).
- Theo đối tác đầu tư: Hiện có 140
quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn
Quốc với tổng vốn đăng ký gần 74,7 tỷ USD (chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư). Nhật Bản đứng thứ hai với gần 64,4 tỷ USD (chiếm 15,8% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài
Loan, Hồng Kông.
- Theo địa bàn: ĐTNN đã có mặt ở
tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với gần 49,5 tỷ USD (chiếm 12,1% tổng vốn đầu tư); tiếp
theo là Bình Dương với gần 37,2 tỷ USD (chiếm 9,1% tổng vốn đầu tư); Hà
Nội với trên 37 tỷ USD (chiếm gần 9,1% tổng vốn đầu tư).
(Biểu số
liệu chi tiết tại Phụ lục III kèm theo)
Trong năm 2021,
số lượng dự án quy mô nhỏ dưới 5 triệu USD giảm 33,9% , các dự án
có quy mô nhỏ dưới 1 triệu USD giảm 33,2% so với cùng kỳ năm 2020.