Cơ hội đã rõ
Các mục tiêu chính của CAI là tăng cường bảo vệ các khoản đầu tư của EU vào Trung Quốc và ngược lại, cải thiện sự chắc chắn về mặt pháp lý liên quan đến việc đối xử với các nhà đầu tư EU ở Trung Quốc, giảm các rào cản đối với đầu tư vào Trung Quốc.
Tuy nhiên, tháng 5/2021, Nghị viện châu Âu đã thông qua nghị quyết đóng băng việc phê chuẩn CAI đã khiến tương lai của CAI bị đặt dấu hỏi. Nghị quyết của Nghị viện châu Âu về việc đóng băng phê chuẩn CAI không có nghĩa là thỏa thuận chấm dứt. Nếu Trung Quốc dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt đối với các quan chức EU, có thể Nghị viện châu Âu sẽ bỏ phiếu phê chuẩn CAI.
Khi CAI vẫn còn trong tình trạng “lấp lửng”, Việt Nam có khả năng được hưởng lợi khi các doanh nghiệp EU tìm cách đa dạng hóa sản xuất và đầu tư. Châu Á vẫn thuận lợi và Việt Nam là một đối thủ cạnh tranh cao để thu hút đầu tư của các doanh nghiệp EU. Trước khi đại dịch xảy ra, nền kinh tế Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng GDP trung bình là 7% và vẫn là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất ở châu Á. Ngay cả trong thời kỳ đại dịch, Việt Nam là một trong số ít quốc gia ghi nhận mức tăng trưởng tích cực. Có một số yếu tố dẫn đến điều này, nhưng chiến tranh thương mại Mỹ - Trung là một trong số có lợi cho Việt Nam. Sở dĩ như vậy vì Việt Nam có những yếu tố tích cực cho sự chuyển dịch này.
Ngoài một số Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết, thì Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) có hiệu lực vào tháng 8/2020 là một trong những hiệp định có ý nghĩa quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp EU. FTA dự kiến sẽ giúp tăng GDP của Việt Nam thêm 4,6% và xuất khẩu của Việt Nam sang EU lên 42,7% vào năm 2025. Trong khi Ủy ban châu Âu dự báo GDP của EU sẽ tăng thêm 29,5 tỷ USD vào năm 2035. Ở cấp độ khu vực, Việt Nam hiện là đối tác thương mại quan trọng thứ hai của EU trong số tất cả các thành viên ASEAN - vượt qua các đối thủ trong khu vực là Indonesia và Thái Lan trong những năm gần đây. Thương mại ngày càng tăng giữa EU và Việt Nam cũng giúp củng cố vị trí của ASEAN với tư cách là đối tác thương mại lớn thứ ba của EU. Sự gần gũi về biên giới của Việt Nam với Trung Quốc đã giúp Việt Nam trở thành cơ sở sản xuất đồng thời được xem như một “Trung Quốc cộng một điểm đến”. Với việc CAI bị đóng băng, các nhà đầu tư nên xem xét các địa điểm sản xuất thay thế ngay bên kia biên giới Trung Quốc.
Ngoài ra, nếu CAI được phê chuẩn, các doanh nghiệp có thể sử dụng Việt Nam như một “Trung Quốc cộng một điểm đến” trong khi lập kế hoạch đầu tư vào Trung Quốc bằng cách bố trí các trung tâm sản xuất gần với các trung tâm truyền thống ở Trung Quốc, các nhà sản xuất có thể giảm chi phí mà hạn chế sự gián đoạn hoặc chậm trễ đối với chuỗi cung ứng hiện có. Ngoài ra, nhiều nhà máy ở Việt Nam thuộc sở hữu nước ngoài với vốn đầu tư từ Trung Quốc, Hàn Quốc... Điều này giúp quá trình chuyển đổi từ Trung Quốc sang Việt Nam suôn sẻ hơn, giúp việc chuyển danh sách kiểm tra, thông số kỹ thuật hoặc thông tin sản phẩm khác hiện có trở nên dễ dàng hơn.
Thêm vào đó, vị trí của Việt Nam gần với các tuyến vận chuyển trong khu vực và vị trí ở châu Á, cho phép các nhà sản xuất vào Việt Nam tập trung vào xuất khẩu. Việt Nam có đường bờ biển dài khoảng 3.200 km với khoảng 114 cảng biển. Ba cảng biển lớn nhất Việt Nam là Hải Phòng (miền Bắc), Đà Nẵng (miền Trung) và Thành phố Hồ Chí Minh (miền Nam). Ngoài ra, Việt Nam có một mạng lưới đường sắt rộng khắp: Côn Minh (Trung Quốc) - Hải Phòng (Việt Nam) dài 855 km và vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc vận chuyển hàng hóa. Bộ Giao thông Vận tải cũng đã đề xuất nâng cấp tuyến đường sắt này.
Trong khi cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn còn hạn chế so với Trung Quốc, Chính phủ đã ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính phủ đã nỗ lực cải thiện các chính sách kinh doanh và luật lao động, bao gồm xếp hạng của Việt Nam trong báo cáo tạo thuận lợi kinh doanh của Ngân hàng Thế giới. Chính phủ cũng đã đầu tư vào các khu công nghiệp, và khoản đầu tư này dự kiến sẽ tăng lên khi đầu tư nước ngoài đổ vào.
Thận trọng là chìa khóa quan trọng
Mặc dù Việt Nam là một địa điểm lý tưởng, nhưng Việt Nam không thể hấp thụ toàn bộ sản lượng từ Trung Quốc hoặc cạnh tranh với nước này về cơ sở hạ tầng và chuỗi cung ứng. Do vẫn còn những hạn chế và các nhà đầu tư phải xem xét kỹ lưỡng tùy thuộc vào từng ngành, địa điểm và loại hình kinh doanh để xem liệu Việt Nam có phù hợp với nhu cầu kinh doanh của họ hay không. Việc đóng cửa gần đây của Việt Nam do làn sóng Covid-19 thứ tư dẫn đến tăng trưởng âm trong quý III/2021, mức tồi tệ nhất trong gần 7 năm. Tuy nhiên, Chỉ số môi trường kinh doanh (BCI) quý III của Phòng Thương mại châu Âu (EuroCham) cho thấy triển vọng tích cực về môi trường kinh doanh của Việt Nam sau khi các biện pháp giãn cách xã hội được dỡ bỏ. Gần một nửa số nhà đầu tư dự báo triển vọng ổn định và cải thiện đối với Việt Nam trong quý IV với 69% lãnh đạo doanh nghiệp có kế hoạch duy trì hoặc tăng đầu tư. Tất cả những yếu tố này báo hiệu tốt cho thương mại Việt Nam - EU và đầu tư hơn nữa.
Thách thức của Việt Nam sẽ là quản lý sự tăng trưởng một cách có trách nhiệm, tăng tỷ lệ tiêm chủng trong khi kiểm soát đại dịch. Tuy nhiên, Việt Nam có khả năng có lợi thế hơn với EVFTA đang được thực thi và khi các doanh nghiệp EU muốn mở rộng đầu tư.
CAI được cho là một hiệp định quan trọng sẽ thay thế 26 hiệp định đầu tư song phương hiện có giữa 27 quốc gia thành viên EU và Trung Quốc, do đó cung cấp một khuôn khổ pháp lý thống nhất cho mối quan hệ đầu tư giữa EU và Trung Quốc.
|