Vấn đề đặt ra với Việt Nam hiện nay là nâng cao
chất lượng dòng vốn FDI và tăng cường các mối liên kết FDI với doanh nghiệp nội
địa nhằm tạo ra giá trị nội tại để thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững. Có
như vậy Việt Nam mới có thể rút ngắn được khoảng cách tụt hậu so với các nước
và tránh được bẫy thu nhập trung bình mà nhiều quốc gia gặp phải.
Một trong những nguyên nhân khiến cho mối liên
kết giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa còn lỏng lẻo do hạn các doanh
nghiệp FDI còn hạn chế trong việc sử dụng các sản phẩm nội địa. Mặt khác, các doanh nghiệp trong nước cũng còn khá dè dặt trong việc
tiếp cận với các doanh nghiệp FDI, chỉ coi các doanh nghiệp FDI như đối tác
cạnh tranh chứ chưa chủ động tìm kiếm các cơ hội liên kết từ các doanh nghiệp
FDI. Bởi vậy, nhiều chuyên gia cho rằng, cần phải nâng cao vai trò cầu nối
của nhà nước trong việc xây dựng những mô hình liên kết phù hợp, thúc đẩy nâng
cao vai trò trách nhiệm của doanh nghiệp FDI trong việc hỗ trợ, kết nối với doanh
nghiệp trong nước. Đặc biệt, bản thân các doanh nghiệp trong nước phải có những
đột phá về công nghệ nguồn, công nghệ cao cũng như nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực,… để có thể đủ lực liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp FDI, đồng thời
trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu./.
Tại Diễn đàn kinh tế Việt Nam – Nhật Bản diễn ra ngày
14/10/2015 tại Hà Nội vừa qua, đại diện của JETRO cho biết hiện nay, doanh
nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam với tỷ lệ nội địa hoá rất thấp, chỉ đạt
khoảng 33%, trong khi Thái Lan là 55% và Indonesia là 43%. Để công nghiệp Việt
Nam phát triển hơn nữa, trở thành nước sản xuất, cung cấp phụ tùng cho nước
ngoài thì trước hết phải phát triển lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp
vừa và nhỏ (SME).
Hiện nay, trong tổng số hơn 19.200 dự án
FDI còn hiệu lực thì có 10.344 dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp chế biến
chế tạo với tổng vốn đăng ký đầu tư đạt 152 tỷ USD, chiếm 56% tổng vốn đăng ký
đầu tư của cả nước. Cơ cấu đầu tư như trên là đúng hướng
và có tác động tích cực đến sự phát triển các ngành công nghiệp của Việt
Nam, phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa – hiện đại hóa của nước
ta. Tuy nhiên, việc thu hút vốn ĐTNN có hiệu quả không, nền kinh tế có thể
hấp thu được các công nghệ, vốn nước ngoài mang vào hay không phụ thuộc lớn vào
việc phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước. Công nghiệp hỗ trợ sẽ giúp
tạo ra giá trị gia tăng trong nội tại nền kinh tế của mình. Nếu không làm được
điều này thì dù có đầu tư nước ngoài nhiều thì giá trị gia tăng của Việt Nam là
hạn chế.
Giải pháp cần thiết nhất hiện nay đó là nhanh chóng
hiện đại hóa công nghệ, đào tạo lao động chất lượng cao để sớm có thể sản xuất
những sản phẩm đạt tiêu chuẩn. Ngoài ra, các chính sách phát triển công
nghiệp hỗ trợ cần tạo lập mối quan hệ liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh
nghiệp trong nước; đồng thời, cũng cần tạo lập được các mô hình liên kết theo
chiều dọc và chiều ngang để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm quốc
gia./.