I.
FDI và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế
1. Một số
khái niệm về cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ
thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua
lại với nhau trong một khối không gian và thời gian nhất định, trong những điều
kiện xã hội cụ thể, hướng vào thực hiện các mục tiêu đã định.
Cơ cấu ngành kinh tế là tổng hợp các
ngành kinh tế và mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành thể hiện ở vị trí và tỷ trọng
của mỗi ngành trong tổng thể nền kinh tế. Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình
độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển chung
của lực lượng sản xuất. Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các
nước đang phát triển.
Cơ cấu kinh tế
lãnh thổ là sự hình thành việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Trong cơ
cấu lãnh thổ có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không
gian lãnh thổ. Tùy theo tiềm năng phát triển kinh tế, gắn với sự hình thành
phân bố dân cư trên lãnh thổ để phát triển tổng hợp hay ưu tiên một vài ngành
kinh tế nào đó.
Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển kinh tế, vừa là kết
quả của quá trình phát triển kinh tế xã hội trong một giai đoạn nhất định vừa
là yếu tố cực kì quan trọng thúc đẩy phát triển nền kinh tế xã hội quốc gia lên
một trình độ mới
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là
quá trình chuyển cơ cấu ngành kinh tế từ dạng này sang dạng khác phù hợp với sự
phát triển của phân công lao động xá hội và phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, phát triển khoa học- công nghệ. Đây không phải đơn thuần là sự
thay đổi vị trí, mà là sự thay đổi cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu
ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu này phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có, do
đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu ngành là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa
phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến hoàn thiện và phù hợp hơn.
2.
Đóng góp của
FDI vào chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Có thể khẳng định FDI là một
nhân tố quan trọng đóng góp rất lớn đến chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp
hóa ở Việt
Nam và tỷ trọng công nghiệp so với GDP
tăng lên là nhờ đáng kể vào khu vực FDI.
Nhìn chung FDI đã xuất hiện ở
tất cả các ngành, nhưng FDI vẫn được thu hút nhiều nhất vào ngành công nghiệp,
trong đó sự xuất hiện của ngành công nghiệp chế biến, chế tác cũng do công đóng
góp lớn của FDI.
Trong giai đoạn đầu của quá
trình thu hút ĐTNN, dòng vốn FDI
hướng vào những ngành công nghiệp khai thác và thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, xu hướng này đã thay đổi kể
từ năm 2000 đến nay. Theo đó, các dự án FDI vào ngành công nghiệp chế biến và định
hướng xuất khẩu đã tăng nhanh, góp phần tăng tổng kim ngạch xuất khẩu và chuyển
dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. Qua các thời kỳ, định hướng
thu hút ĐTNN trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực,
sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu
mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ
khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng chính
là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có
lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN.
Điểm đáng nói nữa là sự xuất
hiện của FDI và phát triển của khu vực này cũng làm xuất hiện nhiều sản phẩm
công nghiệp và dịch vụ mới có đóng góp trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế và cơ cấu hàng xuất khẩu, ví dụ các sản phẩm thiết bị điện, điện tử,
linh kiện. Đây là những mặt hàng xuất hiện cùng với đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam
và đóng góp nhiều cho xuất khẩu.
Bảng 1. ĐTNN theo lĩnh vực (tính đến tháng 11/2014)
TT
|
Chuyên ngành
|
Số dự án
|
Tổng vốn đầu tư đăng ký
(Triệu USD)
|
1
|
CN chế biến,chế tạo
|
9,407
|
138,577.55
|
2
|
KD bất động sản
|
439
|
46,848.26
|
3
|
Xây dựng
|
1,140
|
11,348.97
|
4
|
Dvụ lưu trú và ăn uống
|
362
|
11,086.15
|
5
|
SX,pp điện,khí,nước,đ.hòa
|
96
|
9,748.60
|
6
|
Thông tin và truyền thông
|
1,065
|
4,095.23
|
7
|
Bán buôn,bán lẻ;sửa chữa
|
1,316
|
3,880.41
|
8
|
Vận tải kho bãi
|
431
|
|
9
|
Nông,lâm nghiệp;thủy sản
|
516
|
3,657.63
|
10
|
Nghệ thuật và giải trí
|
147
|
3,631.98
|
11
|
Khai khoáng
|
82
|
3,273.61
|
12
|
HĐ chuyên môn, KHCN
|
1,665
|
1,772.90
|
13
|
Y tế và trợ giúp XH
|
97
|
1,754.56
|
14
|
Cấp nước;xử lý chất thải
|
38
|
1,348.49
|
15
|
Tài chính,n.hàng,bảo hiểm
|
81
|
1,327.78
|
16
|
Giáo dục và đào tạo
|
200
|
806.60
|
17
|
Dịch vụ khác
|
136
|
751.43
|
18
|
Hành chính và dvụ hỗ trợ
|
129
|
211.10
|
|
Tổng số
|
17,347
|
247,832
|
Tính đến nay,
các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 18/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc
dân, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo vẫn là lĩnh vực thu hút
nhiều vốn ĐTNN nhất với khoảng hơn 9.400
dự án, tổng vốn đăng ký 138,5 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký. Đầu tư vào
kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với 439 dự án, tổng vốn đăng ký 46 tỷ USD,
chiếm 20,6% tổng vốn đăng ký. Tiếp theo là các lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống;
xây dựng; sản xuất, phân phối điện, nước, khí, điều hòa và các lĩnh vực khác.
Trong lĩnh vực công nghiệp chế
biến và chế tạo thì Nhật Bản đứng đầu trong số các quốc gia đầu tư vào lĩnh vực
này với khoảng hơn 1.280 dự án và hơn 30,5 tỷ USD, chiếm 14% tổng số dự án và
22% tổng vốn đầu tư của cả nước. Các doanh nghiệp FDI từ Nhật Bản đóng vai trò
đặc biệt quan trọng trong ngành và lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo. Trong
số các dự án của Nhật Bản có nhiều tập đoàn lớn của Nhật Bản đang hoạt động tại
Việt Nam, trong sản xuất lắp ráp điện tử có các hãng như Cannon; Panasonic,
Sanyo…; trong công nghiệp ô tô và xe máy, nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư của
Nhật đang dẫn đầu thị trường tiêu thụ tại Việt Nam, như Toyota Việt Nam; Honda
Việt Nam; Yamaha Việt Nam; Suzuki Việt Nam….
Đứng thứ hai là Hàn Quốc với
gần 2.500 dự án với 23,5 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 26% tổng số dự án và 17% tổng
vốn đầu tư của cả nước. Giống như Nhật Bản, Hàn Quốc cũng có nhiều tập đoàn lớn
đã đầu tư trong lĩnh vực này như Samsung, Daewoo….
Đứng thứ ba là Đài Loan với
hơn 1.800 dự án và 23 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 19% tổng số dự án và 16% tổng vốn
đầu tư của cả nước. Các dự án của Đài
Loan ở Việt Nam chủ yếu trong lĩnh vực cung ứng cho ngành xe máy, điện tử.
Trong ngành công nghiệp xe máy, VMEP Đài Loan đầu tư vào Việt Nam sớm nhất và
đã kêu gọi được nhiều doanh nghiệp Đài Loan chuyên sản xuất linh phụ kiện cho
xe máy đầu tư theo vào Việt Nam, tập trung rất lớn ở tỉnh Đồng Nai.
Bảng 2. Đầu tư của các nước trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo
Số TT
|
Đối tác
|
Số dự án
|
Tổng vốn đầu tư (USD)
|
1
|
Nhật Bản
|
1282
|
30,584,466,562
|
2
|
Hàn Quốc
|
2471
|
23,469,432,493
|
3
|
Đài Loan
|
1839
|
23,118,533,356
|
4
|
Singapore
|
417
|
13,155,094,521
|
5
|
BritishVirginIslands
|
290
|
8,432,539,059
|
6
|
Hồng Kông
|
406
|
7,012,645,373
|
7
|
Thái Lan
|
177
|
5,622,663,537
|
8
|
Trung Quốc
|
744
|
4,231,978,518
|
9
|
Cayman Islands
|
21
|
4,063,888,735
|
10
|
Samoa
|
102
|
2,225,440,114
|
11
|
Hoa Kỳ
|
315
|
2,210,587,938
|
12
|
Hà Lan
|
86
|
2,180,228,772
|
13
|
Malaysia
|
221
|
1,899,858,649
|
14
|
Thụy Sỹ
|
36
|
1,642,367,046
|
15
|
Vương quốc Anh
|
70
|
1,304,995,205
|
3. Đóng góp của FDI vào chuyển dịch cơ cấu
vùng kinh tế
Trong
giai đoạn đầu thu hút FDI, nguồn vốn này chỉ tập trung ở các đô thị lớn, vùng
có cơ sở hạ tầng, điều kiện phát triển kinh tế thuận lợi.
Cùng với việc bổ sung,
hoàn thiện pháp luật về đầu tư nên các chính sách nhằm thu hút FDI vào những vùng có điều
kiện kinh tế khó khăn hơn, chính sách KCN, KCX và chính sách phân cấp cấp giấy
phép đầu tư đã được ban hành và có tác động lớn đến chuyển dịch dòng
vốn FDI. Theo đó, cơ cấu FDI theo vùng đã thay đổi theo hướng tích cực hơn,
nhưng vẫn chậm. Một số tỉnh xung quanh các đô thị lớn ở phía Bắc và phía
Nam đã tăng được lượng FDI thu hút đột biến như Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Long An,
Đà Nẵng... Mặc dù vậy, bốn địa phương là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình
Dương và Đồng Nai vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của cả nước.
Cơ cấu FDI theo vùng chuyển
biến rõ rệt hơn sau khi Luật Đầu tư năm 2005 có hiệu lực. Trong thời gian từ
năm 2006, cơ cấu đầu tư theo vùng đã có chuyển biến tích cực hơn. Bên cạnh các
địa bàn thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam, nguồn vốn FDI đã dần
chuyển dịch sang một số địa bàn thuộc các tỉnh Duyên hải miền trung và đồng bằng
sông Cửu Long như Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Phú Yên, Kiên Giang, Ninh Thuận,… Bắc và
Nam Trung Bộ, trong đó Quảng Nam và Đà Nẵng cũng có nhiều tiến bộ trong thu hút
vốn FDI, nhất là đầu tư vào xây dựng các khu du lịch, trung tâm vui chơi, nghỉ
dưỡng. Khu vực phía Bắc có một số địa phương lân cận Hà Nội đã thành công
trong việc thu hút các dự án FDI lớn như Thái Nguyên, Bắc Ninh, Hải Dương và đã
đưa các tỉnh, thành phố này vào top dẫn đầu của cả nước.
Như vậy, các dự án FDI đã được
phân bổ tới hầu hết tất cả các tỉnh, thành trong cả nước. Tuy nhiên, những địa
bàn có nhiều lợi thế về cơ sở hạ tầng, lao động dồi dào và có kỹ năng,… vẫn là
những địa điểm hấp dẫn nhất đối với ĐTNN và kết quả thu hút ĐTNN vẫn vượt xa so
với các tỉnh khó khăn.
Đến nay, ĐTNN đã có tại 63 tỉnh,
thành phố trong cả nước, trong đó thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu với hơn 5.000
dự án và gần 38 tỷ USD, chiếm 14% tổng vốn đầu tư của cả nước. Bà Rịa – Vũng
Tàu đứng thứ hai với 300 dự án và 26,7 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 11% tổng vốn đầu tư của cả nước. Hà Nội đứng
thứ ba với 3000 dự án và 23,4 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 9,4% tổng vốn đầu tư của cả nước. Tiếp theo là
các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Bắc Ninh. Chỉ
tính riêng vốn ĐTNN của 10 tỉnh trên đã chiếm trên 70% tổng vốn Đtnn của cả
nươc
TT
|
Địa phương
|
Số dự án
|
Tổng vốn đầu tư đăng ký
(Triệu USD)
|
1
|
TP Hồ Chí Minh
|
5,158
|
37,940.58
|
2
|
Bà Rịa-Vũng Tàu
|
300
|
26,696.49
|
3
|
Hà Nội
|
2,996
|
23,410.03
|
4
|
Đồng Nai
|
1,229
|
21,153.96
|
5
|
Bình Dương
|
2,500
|
19,908.26
|
6
|
Hải Phòng
|
436
|
10,892.81
|
7
|
Hà Tĩnh
|
53
|
10,612.66
|
8
|
Thanh Hóa
|
54
|
10,189.59
|
9
|
Bắc Ninh
|
536
|
7,294.99
|
10
|
Thái Nguyên
|
73
|
6,825.88
|
11
|
Hải Dương
|
319
|
6,447.10
|
12
|
Quảng Ninh
|
111
|
5,188.03
|
13
|
Quảng Nam
|
94
|
5,076.36
|
14
|
Phú Yên
|
57
|
4,747.26
|
15
|
Long An
|
537
|
4,093.41
|
16
|
Quảng Ngãi
|
31
|
4,001.14
|
17
|
Đà Nẵng
|
306
|
3,999.70
|
18
|
Bình Thuận
|
115
|
3,521.01
|
19
|
Vĩnh Phúc
|
207
|
3,167.19
|
20
|
Kiên Giang
|
36
|
2,922.95
|
4. Đánh giá chung
Với những kết quả đã đạt được
FDI đã khẳng định vai trò quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều này được thể hiện qua đóng góp của
FDI vào chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
và chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế. Điểm đáng lưu ý là chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế đi liền với xuất hiện nhiều sản phẩm công nghiệp mới, có giá trị gia
tăng cao. Khu vực có vốn nước ngoài đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền
kinh tế, bên cạnh khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước. Sự có mặt của FDI
cũng đóng góp lớn vào chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế, trong đó nhiều tỉnh trước
đây chỉ dựa vào nông nghiệp đã chuyển dịch cơ cấu sang tăng nhanh tỷ trọng công
nghiệp, chủ yếu nhờ thu hút FDI.
Mặc dù vậy, đóng góp của FDI
vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ ba góc độ nêu trên vẫn chưa tương xứng với tiềm
năng. Trên thực tế, chuyển dịch cơ cấu vẫn nhờ vào số lượng, cụ thể là:
- Một số lượng lớn FDI đầu tư
vào ngành công nghiệp, nhưng chất lượng chưa cao, mặc dù sản xuất nhiều sản phẩm mới,
xuất hiện ngành mới (đặc biệt một số ngành quan trọng như viễn thông, thăm dò
và khai thác dầu khí, cơ khí chế tạo, điện tử, ôtô,…) mà giá trị tăng thêm vẫn
thấp do chi phí trung gian quá cao.
- Các yếu tố giúp cho quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế bền vững thì vẫn còn thiếu. Chuyển giao công nghệ qua FDI còn hạn chế và nếu có thường xảy ra với
các doanh nghiệp quy mô lớn, thông qua ký kết hợp đồng. Trình độ công nghệ của Việt Nam tuy có cao
hơn trước, song chủ yếu vẫn là các ngành có trình công nghệ trung bình như chế
biến thực phẩm, dệt may, da giày, sản xuất gỗ v.v. đó cũng là những ngành có sự
tham gia cao của khu vực FDI.
- Chuyển dịch cơ cấu vùng tuy
gắn liền với FDI, nhưng cũng nảy sinh rủi ro tạo ra cơ cấu kinh tế thiếu bền vững.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mất cân đối về cơ cấu ngành nghề,
vùng lãnh thổ.
Ở nhiều tỉnh, hạ tầng kỹ thuật
KCN, KCX tốt nhưng lại thiếu nguồn lao động có tay nghề. Việc các tỉnh quá tập
trung vào hạ tầng kỹ thuật để thu hút đầu tư mà không tạo sự đồng bộ về cơ sở hạ
tầng văn hóa, xã hội cũng làm hạn chế rất nhiều tác động chuyển dịch cơ cấu của
FDI. Sự thiếu đồng bộ trong tạo dựng các yếu tố cho triển khai thực hiện các dự
án ở các tỉnh cũng là một nguyên nhân hạn chế việc thực hiện các dự án, hạn chế
đóng góp của FDI.
Bên cạnh những yếu tố cơ bản
như yếu kém về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực để phát triển các ngành công nghiệp
mang lại giá trị gia tăng cao hơn thì hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư
tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn chưa thực sự đồng bộ, thiếu nhất
quán. Cơ chế quản lý, giám sát, năng lực và trình độ quản lý của các cấp có thẩm
quyền và các cơ quan xúc tiến đầu tư còn nhiều hạn chế.
II. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1. Quan điểm, mục tiêu chính sách FDI
Hội Nghị TƯ lần thứ 3, Khóa
XI đã khẳng định và thông qua nhiệm vụ tái cấu trúc nền kinh tế gắn với đổi mới
mô hình tăng trưởng nhằm tăng năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế. Do đó, quan điểm chung tới đây là thu hút và sử dụng FDI nhằm phục vụ
cho tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng chất lượng, hiệu
quả và năng lực cạnh tranh. Quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng không
thể nằm ngoài quan điểm chung đó. Ngoài ra, quan điểm định hướng chính sách đầu
tư nước ngoài tới đây cần phải coi FDI là một nhân tố quan trọng thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phục vụ nhiệm vụ tái cơ cấu và đổi mới mô hình
tăng trưởng.
Mục
tiêu của chính sách FDI tới đây là thu hút FDI có chất lượng, có thể tạo ra sự
biến đổi về chất trong cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu vùng
kinh tế. Đây cũng được xem là yêu cầu cấp thiết đối với chính sách đầu tư nước
ngoài trong thời gian tới. Định hướng chính sách cũng cần thu hút FDI và sử dụng
nguồn vồn này vào tăng năng suất của các ngành. Chính sách FDI cũng cần tạo sức
hút để các doanh nghiệp trong nước có thể tham gia chuỗi giá trị mà doanh nghiệp
FDI đóng vai trò chính.
2. Định hướng chính
sách FDI
Trên
cơ sở quan điểm và mục tiêu nêu trên, có thể xem xét một số định hướng chính
sách FDI dưới đây nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình chuyển
đổi mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế
Một là, chính sách ĐTNN cần hướng thu hút
FDI không chỉ vào những ngành tận dụng lợi thế so sánh, mà cần tận dụng nguồn vốn
này nhằm tăng năng lực cạnh của ngành. Khuyến khích thu hút FDI vào các ngành sản
xuất đầu vào trung gian thường sử dụng công nghệ cao hơn, nhưng đang rất thiếu
và yếu ở nước ta, nhằm thúc đẩy đóng góp tích cực của FDI cho chuyển dịch cơ cấu
một cách bền vững.
Hai là, để tận dụng tốt những điểm mạnh của
FDI thì bên cạnh xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và phát triển nguồn nhân lực
thì cần tăng năng lực của doanh nghiệp trong nước, trước hết là năng lực công
nghệ. Trình độ công nghệ thấp khiến các doanh nghiệp trong nước khó có thể hợp
tác, tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Do đó, cần có
chính sách đồng bộ hơn để thúc đẩy đầu tư nước ngoài cho mục tiêu chuyển dịch
cơ cấu kinh tế phục vụ tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng. Đây cũng là điểm
yếu trọng giai đoạn trước, nhưng chưa được xử lý một cách đồng bộ, nên chỉ quan
tam thu hút FDI mà chưa tạo dựng được nền tảng công nghiệp trong nước đủ để hấp
thụ tác động tích cực của đầu tư nước ngoài. Do đó, một số địa phương thu hút
được khối lượng vốn FDI lớn, song sự đóng góp thiếu bền vững và chuyển dịch cơ
cấu lao động vẫn chậm. Ví dụ. các dự án công nghiệp nặng thường cần đầu tư lớn,
thời gian đầu tư dài để có sản phẩm. Các dự án như vậy sẽ không phải là nơi tạo
nhiều việc làm trực tiếp cho lao động địa phương.
Thứ tư, khuyến khích hình thành cụm ngành nhằm
tạo liên kết sản xuất giữa các DN FDI và doanh nghiệp trong nước; giữa các KCN
nhằm tăng hiệu quả của FDI. Qua đó giúp các doanh nghiệp trong nước tham gia
vào chuỗi giá trị của các doanh nghiệp FDI. Hoàn thiện mô hình KCN không chỉ
chú trọng đến kết nối giao thông với ngoài khu, mà KCN cần kết nối cả về đào tạo,
công nghệ, xử lý ô nhiễm môi trường với bên ngoài khu.
Việc phát triển các khu kinh
tế (khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở ...) đến nay có vai trò nhất
định vừa đối với thu hút FDI, vừa đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ở nhiều tỉnh gắn với sự phát triển của KCN và FDI, ví dụ Đồng
Nai, Bình Dương, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh v.v. Thu hút FDI vào các KCN đã đóng góp lớn
vào phát triển công nghiệp của địa phương, không chỉ dừng ở đó, FDI còn có vai
trò làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo thành phần và vùng. Tuy vậy, điểm yếu của
thu hút FDI vào các KCN là chưa chú ý đến hình thành các cụm ngành tạo liên kết
sản xuất. Do đó, chính sách đầu tư nước ngoài tới đây nên xem xét hướng đến mục
tiêu này. Qua đó sẽ đồng thời đóng góp
vào quá trình tái cơ cấu kinh tế, duy trì tăng trưởng bền vững, hài hòa phát
triển kinh tế giữa các vùng và ngành kinh tế.
Thực
tế qua nhiều đánh giá cho thấy tác động lan tỏa của FDI đối với khu vực kinh tế
trong nước còn rất yếu, tác động đẩy và kéo năng suất lao động của khu vực FDI
đối với kinh tế trong nước còn thấp. Một vấn đề nữa là ít thấy có mối liên kết
sản xuất giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước trong các
KCN và giữa các KCN, ngành nghề hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN cũng
đa dạng, khó cho các doanh nghiệp hợp tác với nhau. Số lượng KCN tăng lên, hạ tầng
KCN đã được kết nối với bên ngoài, nhưng chủ yếu là hạ tầng giao thông, trong
khi các vấn đề khác như các công trình phúc lợi, đào tạo nguồn nhân lực và quản
trị cho doanh nghiệp, phát triển các cơ sở nghiên cứu gắn với các KCN chưa được
phát triển. Do đó, FDI trong các KCN thuần túy chỉ đóng góp vào tăng giá trị sản
lượng công nghiệp, tạo việc làm, ít tạo ra tác động lan tỏa đến doanh nghiệp
trong nước và các lĩnh vực khác.
Để thực hiện đề xuất nêu trên
thì cần tiến hành rà soát và điều chỉnh quy hoạch phát triển các Khu công nghiệp,
chế xuất ... cả nước và ở từng tỉnh, trước mắt đến năm 2020. Theo đó sẽ thay đổi mục tiêu phát triển
cáckhu kinh tế gắn với thu hút đầu tư nói chung và thu hút FDI nói riêng.