Ông Đặng Huy Đông, đồng thời đứng đầu nhóm công tác liên ngành rà soát các ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh và kinh doanh có điều kiện – nhóm được Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thành lập trong tháng 8 vừa qua, đã khẳng định như vậy tại cuộc tọa đàm chiều 6/10 về kết quả rà soát sơ bộ.
“Giấy phép con” làm thui chột ý định kinh doanh
Tham gia nhóm công tác với vai trò chuyên gia độc lập, ông Lê Duy Bình từ Công ty tư vấn quản lý kinh tế Economica Việt Nam nhắc đến một quy định vừa được bãi bỏ: Doanh nghiệp phải đầu tư mua sắm tài sản cố định có giá trị từ 1 tỷ đồng trở lên mới được kê khai thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ. Ông Bình cho rằng những quy định như vậy đã làm thui chột hàng ngàn ý định kinh doanh.
“Sự khắt khe hơn mức cần thiết, thậm chí phi lý của nhiều quy định liệu có phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế hiện nay?”, ông Bình đặt vấn đề khá gay gắt và nhận xét, hiểu rõ động cơ của từng loại giấy phép, điều kiện kinh doanh là cơ sở quan trọng để đề xuất cải cách đối với điều kiện kinh doanh đó.
Chuyên gia độc lập này đề xuất cần chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, bởi quá chú trọng vào tiền kiểm điều kiện kinh doanh sẽ làm lệch trọng tâm và mục tiêu quản lý, dẫn tới thực trạng nhiều cơ quan chỉ chú trọng vào việc kiểm tra điều kiện kinh doanh, trong khi điều kiện kinh doanh không đủ hoặc không hiệu quả để giải quyết vấn đề.
Economica Việt Nam và Công ty tư vấn quản lý MCG đều cho rằng trong nhiều trường hợp, nên trả lại chức năng cho thị trường để sàng lọc các doanh nghiệp đủ điều kiện kinh doanh và đào thải những doanh nghiệp không đáp ứng được.
TS Lê Đăng Doanh, cũng tham gia nhóm rà soát với vai trò chuyên gia độc lập, cho rằng cần làm rõ hơn về các lý lẽ và căn cứ thực tiễn để thuyết phục được Quốc hội, Chính phủ và nhất là các bộ, ngành về việc bãi bỏ một ngành nghề hay điều kiện kinh doanh nào đó. “Tôi rất hoan nghênh kết quả rà soát nhưng phải nỗ lực rất lớn nữa”, ông Doanh nhấn mạnh.
Những câu hỏi tại sao
Ông Phan Đức Hiếu, Trưởng Ban Môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của CIEM, thường trực nhóm rà soát, cho biết hiện việc gọi tên các ngành nghề kinh doanh có điều kiện là rất không thống nhất, không theo một nguyên tắc chung nào. Tuy chỉ là tên gọi, nhưng điều này cũng thể hiện phần nào sự “lộn xộn” trong việc đặt điều kiện kinh doanh.
Một điểm đáng lưu ý khác đó là tình trạng trùng lặp về quản lý nhà nước. Chẳng hạn Bộ Công an quản lý 18 ngành nghề kinh doanh có điều kiện với giấy chứng nhận đủ điều kiện an ninh trật tự, rất nhiều trong số này đồng thời thuộc sự quản lý của ngành khác như karaoke, vũ trường, hoạt động in…
Đi sâu vào điều kiện kinh doanh, nhóm công tác cho rằng phải bãi bỏ những ngành nghề và điều kiện không cần thiết, không hợp pháp, đồng thời sửa đổi những ngành nghề và điều kiện chưa hợp lý, chưa rõ ràng, chưa cụ thể.
Ông Phan Đức Hiếu đưa ra hàng loạt ví dụ cụ thể. Chẳng hạn, những điều kiện kinh doanh trong ngành bảo hành, bảo dưỡng ô tô hoàn toàn có thể do thị trường giải quyết, như vậy Nhà nước không không cần đưa ra điều kiện kinh doanh trong ngành này. Hoặc kinh doanh dịch vụ việc làm phải có địa điểm đặt trụ sở ổn định từ 3 năm trở lên, tại sao lại là 3 năm, ông Hiếu cho rằng điều kiện này không hợp lý bởi vì áp đặt quá mức.
Tương tự, tại sao lại yêu cầu phải có một số lượng phương tiện tối thiểu nào đó mới được kinh doanh vận tải? “Nếu người dân bắt đầu kinh doanh với 1 xe ô tô cũng rất tốt, miễn sao bảo đảm an toàn và nếu phát triển được thì nâng lượng xe lên. Nếu tôi có 1 xe bốn chỗ mà không cho tôi kinh doanh taxi thì chỉ có cách là chạy taxi dù”, ông Hiếu nói.
Giảm bớt gánh nặng cho doanh nghiệp
Thứ trưởng Đặng Huy Đông cho rằng không hẳn cứ bớt được nhiều điều kiện kinh doanh là tốt. Điều kiện nào cần thì phải giữ, cái gì không cần thì bỏ, mục tiêu cuối cùng là làm thế nào để giảm bớt gánh nặng hành chính cho doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch, rõ ràng.
Nhắc lại tinh thần của Thủ tướng trong thông điệp đầu năm mới 2014 về “nhà nước kiến tạo”, ông Đông cho rằng trong cải cách thủ tục hành chính, các cơ quan nhà nước phải ngồi lại với nhau để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, chứ không phải doanh nghiệp đi từng cửa đến từng cơ quan. Tức là chỉ nên có một cơ quan thống nhất đặt ra điều kiện kinh doanh với một ngành nghề.
Mặt khác, điều kiện kinh doanh sẽ được đăng tải thống nhất tại Cổng thông tin doanh nghiệp quốc gia. Điều này sẽ tránh được tình trạng doanh nghiệp phải mỏi mắt tìm hiểu về điều kiện kinh doanh.
Ông Đông cũng thống nhất quan điểm rằng phải giảm bớt các điều kiện mang tính chất định tính quá nhiều, tránh tình trạng “cơ quan quản lý tha hồ yêu cầu doanh nghiệp, nay thế này, mai thế khác”. Tất nhiên, để đưa ra các điều kiện cụ thể, rõ ràng thì cơ quan quản lý phải nâng cao năng lực hơn nữa.
Nhắc lại ý kiến phát biểu của TS Lê Đăng Doanh, ông Đông cho biết trong quá trình rà soát, các bộ, ngành sẽ phải trả lời câu hỏi tại sao lại cần điều kiện đó, giấy phép đó. Và ngược lại, bỏ điều kiện đó thì hệ lụy cho nền kinh tế, con người, an ninh trật tự là gì? Nếu các bộ, ngành giải trình rằng ngành nghề kinh doanh có điều kiện được quy định tại luật, nghị định (và giao bộ, ngành quy định cụ thể về điều kiện kinh doanh-BT) thì cũng chưa đủ thuyết phục, phải xem lại cả tính hợp lý, tính cần thiết của các điều kiện kinh doanh cụ thể do Bộ đó quy định nữa, ông Đông khẳng định.
Đồng thời trong “chiến dịch” rà soát này thì người thực thi điều kiện kinh doanh là các doanh nghiệp phải được tham gia.