Thực trạng hoạt động xúc tiến
đầu tư:
Trong những năm qua, hoạt động XTĐT đã được các Bộ,Ủy
ban nhân dân các tỉnh và Thành phố trực thuộc Trung Ương chú trọng xây dựng và
thúc đẩy nhằm tạo thêm kênh thu hút đầu tư cho các hoạt động phát triển kinh tế
- xã hội. Thực hiện định hướng thu hút đầu tư của Chính phủ, hầu hết các Bộ, Ủy
ban nhân dân các tỉnh và Thành phố trực thuộc Trung Ương đã xây dựng Chương
trình XTĐT hàng năm.
Thực hiện Quyết định số 03/2014/QĐ-TTg ngày
14/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý nhà nước đối
với hoạt động xúc tiến đầu tư có hiệu lực ngày 01 tháng 3 năm 2014, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đã gửi công văn số 2609/BKHĐT-ĐTNN ngày 28/4/2014 đề nghị các Bộ, Ủy
ban nhân dân các tỉnh và Thành phố trực thuộc Trung Ương rà soát các hoạt động
XTĐT thuộc Chương trình XTĐT của các Bộ và địa phương năm 2014. Bộ Kế hoạch và
Đầu tư xác định mục tiêu triển khai Quy chế XTĐT trong năm 2014 là rà soát các
hoạt động XTĐT năm 2014, điều phối các hoạt động XTĐT từ nay đến cuối năm 2014,
chuẩn bị cho việc xây dựng, triển khai Chương trình XTĐT cho năm 2015 và các
năm tiếp theo.
Trên cơ sở rà soát chương trình XTĐT của 53/63 tỉnh,
Thành phố trực thuộc TW, cả nước có 504 hoạt động XTĐT được phân theo 8 loại nội
dung hoạt động XTĐT (theo quy định tại Quy chế QLNN về hoạt động XTĐT) và 3
Vùng quản lý hoạt động XTĐT do 3 Trung tâm XTĐT cấp vùng của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư quản lý là: Trung tâm XTĐT Phía Bắc (các tỉnh phía Bắc cho đến tỉnh Quảng
Bình-29 tỉnh); Trung tâm XTĐT miền Trung (từ tỉnh Quảng Trị đến tỉnh Khánh Hóa
và 5 tỉnh Tây Nguyên-13 tỉnh) và Trung tâm XTĐT Phía nam (từ tỉnh Ninh Thuận đến
tỉnh Cà Mau -21 tỉnh).
Các hoạt
động XTĐT của các địa phương được phân bổ tương đối đồng đều, riêng loại hoạt động
xây dựng các ấn phẩm, tài liệu phục vụ cho hoạt động xúc tiến đầu tư và tuyên
truyền, quảng bá, giới thiệu về môi truờng, chính sách, tiềm năng và cơ hội đầu
tư được các địa phương tập trung chú trọng chiếm 30,8% và 14,5% số hoạt động của
cả nước.
Đối với
4 vùng Kinh tế trọng điểm (KTTĐ) Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ và Đồng bằng Sông Cửu
long bao gồm 24 tỉnh có 248 hoạt động chiếm 49,2% số hoạt động của cả nước. Các
hoạt động XTĐT của các tỉnh tại khu vực cũng tập trung vào các hoạt động các ấn
phẩm, tài liệu phục vụ cho hoạt động xúc tiến đầu tư và tuyên truyền, quảng bá,
giới thiệu về môi truờng, chính sách, tiềm năng và cơ hội đầu tư chiếm 12,5% và
39,5%.
Các
đoàn XTĐT tại nước ngoài của các địa phương trong năm 2014 là 62 đoàn XTĐT được
bố trí tại 2 loại hoạt động Nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, thị trường, xu hướng
và đối tác đầu tư và tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu về môi truờng, chính
sách, tiềm năng và cơ hội đầu tư, tập trung vào 17 nước. Trong đó các đối tác
chủ yếu là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hoa Kỳ và các nước ASEAN… Ngoài ra,
các đoàn khảo sát thị trường, XTĐT tại Lào, Campuchia và Myanma chủ yếu là các
đoàn XTĐT ra nước ngoài, tìm kiếm mở rộng thị trường, cơ hội và đối tác đầu tư
tại thị trường mới cho các doanh nghiệp trong nước gồm 9 đoàn XTĐT chiếm 14,5%.
Về công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động
XTĐT ở cấp địa phương: đến nay, 53/63 địa phương trong cả
nước đã có tổ chức bộ máy theo hình thức Trung tâm nhằm thực hiện chức năng XTĐT
vào địa phương. Tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi
địa phơng, Trung tâm XTĐT của các địa phương được thành lập theo một số mô
hình sau đây:Trung tâm XTĐT trực thuộc UBND cấp tỉnh (tương đương cấp Sở) với
chức năng nhiệm vụ xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch hay hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa chiếm 26/63 tỉnh, thành phố hoặc trực thuộc Sở Kế hoạch và Đầu
tư (tương đương cấp Phòng thuộc Sở) chiếm 27/63 tỉnh, thành phố. Hiện có 10/63
tỉnh, thành phố không thành lập Trung tâm, các nhiệm vụ XTĐT được giao cho
Phòng Kinh tế đối ngoại của UBND hay Sở Kế hoạch và Đầu tư.
-
Phần lớn các Trung tâm XTĐT ở các địa phương đều là các đơn vị sự nghiệp có
thu; tuy nhiên cũng có địa phương Trung tâm XTĐT là các đơn vị sự nghiệp không
thu.
Việc thành
lập các trung tâm thực hiện chức năng XTĐT ở các địa phương đã hình thành cơ
quan đầu mối trong việc thực hiện hoạt động XTĐT, thông qua đó hoạt động XTĐT ở các địa phương được tăng cường và đi vào
nề nếp, góp phần quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn ĐTNN vào các địa phương.
Công tác phối hợp giữa trung ương với địa phương cũng
như giữa các địa phương với nhau về xúc tiến đầu tư. Đây là cơ sở cho việc
triển khai các hoạt động XTĐT có quy mô lớn, mang tính chất liên vùng, liên
ngành.Nhìn chung, các hoạt động
xúc tiến đầu tư ở các địa phương được đánh giá có nhiều mặt tích cực như :
- Hoạt động XTĐT của các địa phương đã được xây dựng
thành chương trình XTĐT hàng năm, đáp ứng được các yêu cầu cơ bản đối với hoạt
động XTĐT. Hầu hết các hoạt động phù hợp với: quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của cả nước, của ngành và địa phương; định hướng của Chính phủ
về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, có tác động thiết thực đến việc thu hút
các nguồn đầu tư vào các lĩnh vực hoặc địa bàn và mục tiêu kinh tế - xã hội của
địa phương.
- Các hoạt động XTĐT đã được triển khai rộng khắp
tại các địa phương của cả nước. Đánh dấu chuyển biến từ XTĐT theo hướng bị động
sang chủ động. Một số địa phương, công ty phát triển hạ tầng KCN tại các vùng
kinh tế trọng điểm, thu hút đầu tư nước ngoài mạnh đã xác định được các đối
tác, thị trường trọng điểm… tạo niềm tin mạnh mẽ với cộng đồng doanh nghiệp,
nhà đầu tư nước ngoài.
- Các hoạt động XTĐT được xây dựng tương đối toàn
diện từ khâu nghiên cứu thị trường, xây dựng các kênh xúc tiến hiệu quả với các
các tổ chức ngành nghề, cơ quan XTĐT của các nước đối tác đầu tư nước ngoài chủ
chốt của Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Đài Loan, Singapore…
- Hầu hết các địa phương quán triệt phương thức lồng
ghép xúc tiến đầu tư với thương mại và du lịch. Tích cực tham gia các chương
trình XTĐT liên ngành, liên vùng do các Bộ ngành TW tổ chức trong các lĩnh vực
cơ sở hạ tầng, công nghiệp phụ trợ, nông nghiệp công nghệ cao…
- Trong điều kiện ngân sách hạn chế, các địa
phương đã khuyến khích và tranh thủ các nguồn kinh phí xã hội hóa để thực hiện
các hoạt động tuyên truyền, vận động XTĐT ở trong nước và nước ngoài.
Định hướng xây dựng Chương trình XTĐT năm 2015:
Thực hiện các nội dung về nội dung,
nguyên tắc và yêu cầu đối với hoạt động XTĐT quy định tại Quyết định số
03/2014/QĐ-TTg ngày 14/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế
quản lý nhà nước đối với hoạt động xúc tiến đầu tư, Chương trình XTĐT năm 2015
cần bám sát các nội dung sau:
- Chú trọng xây dựng chương trình XTĐT
theo trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải. Các hoạt động XTĐT phải xác định về
tính khả thi, phương thức, thời
gian, kinh phí, tiến độ triển khai;
- Các hoạt động xúc tiến đầu tư phải xây dựng,
tập hợp thành chương trình xúc tiến đầu tư và được cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt;
- Coi cải thiện môi trường đầu tư là trọng tâm công tác XTĐT. Lấy công tác
xúc tiến đầu tư tại chỗ làm hạt nhân hỗ trợ các nhà đầu tư giải quyết khó khăn
trong quá trình triển khai đầu tư, kinh doanh nhanh chóng, hiệu quả;
- Tăng
cường liên kết các hoạt động
xúc tiến đầu tư với các hoạt động xúc tiến
thương mại, du lịch và các chương trình tuyên truyền đối ngoại;
- Kiện toàn công tác phối hợp trong công
tác XTĐT giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với các Bộ ngành liên quan ở cấp Trung ương;
cơ chế phối hợp giữa Sở Kế hoạch và Đầu tư với các đơn vị thực hiện hoạt động
XTĐT của địa phương ở cấp tỉnh.
Định hướng xây dựng chương trình XTĐT theo
ngành, lĩnh vực tập
trung theo:
- Lợi thế của từng vùng, từng ngành để phát huy hiệu quả đầu
tư của địa phương; đảm bảo tính liên vùng, liên ngành, không vì lợi ích cục bộ của địa phương ảnh hưởng tới quy hoạch
chung; đảm bảo lợi ích tổng thể quốc gia và
tái cấu trúc nền kinh tế theo mô hình tăng trưởng mới.
- Trong năm 2015, chú trọng xúc tiến các dự án thuộc các lĩnh vực: Cơ sở hạ tầng: giao thông, cảng biển,
năng lượng trọng điểm theo các hình thức BOT, PPP có ý nghĩa lan tỏa đối với
phát triển kinh tế-xã hội của vùng và tỉnh. Các dự án hạ tầng xã hội: bệnh viện,
trường đại học, dạy nghề …phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của
ngành và địa phương; Công nghiệp hỗ trợ: Theo quy định của Quyết định12/2011/QĐ-TTg
về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ, các lĩnh vực tập
trung xúc tiến như linh kiện phụ tùng (là lĩnh
vực sản xuất linh kiện, phụ tùng, bán thành phẩm, cung cấp cho việc sản xuất lắp
ráp sản phẩm cuối cùng trong các ngành công nghiệp chế tạo và cả linh kiện phụ
tùng thay thế, công nghiệp dệt may và da giày, công nghiệp công nghệ cao; Nông nghiệp: xúc tiến đầu tư vào sản xuất nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ
cao, phát triển bền vững như: chọn tạo nhân giống cây trồng, giống vật nuôi và
giống thủy sản cho năng suất, chất lượng cao; phòng trừ dịch bệnh cây trồng, vật
nuôi và thủy sản; nghiên cứu quy trình công nghệ trong sản xuất công nghệ cao;
tạo ra các loại vật tư máy móc, thiết bị sử dụng trong nông nghiệp;bảo quản chế
biến sản phẩm nông nghiệp; phát triển khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại
Đồng bằng sông Hồng, duyên hải miền Trung, Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu long;
chính sách khuyến khích Danh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn được quy
định tại Nghị định 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 và Danh mục các dự án kêu gọi
đầu tư Quốc gia tại Quyết định 630/QĐ-TTg ngày 29/4/2014.
- Chọn lọc các dự án có chất lượng, có giá trị gia tăng cao,
sử dụng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, đặc biệt trong lĩnh vực
công nghệ thông tin và công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp;
phát triển kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao,
nghiên cứu và phát triển, dịch vụ hiện đại.
- Tăng cường
xúc tiến các dự án quy mô lớn, sản phẩm có tính
cạnh tranh cao, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của
các tập đoàn xuyên quốc gia, từ đó xây
dựng, phát triển hệ thống các ngành, doanh nghiệp phụ trợ; khuyến khích các dự án công nghiệp chuyển dần từ
gia công sang sản xuất; lựa chọn các nhà đầu tư lớn, có uy tín đầu tư phát triển thị
trường tài chính; đồng thời, chú trọng đến các dự án
có quy mô vừa và nhỏ phù hợp với từng ngành kinh tế, từng địa phương.
Định
hướng xây dựng chương trình XTĐT theo đối tác xúc tiến đầu tư phải đảm các
nguyên tắc như:
- Nhà đầu tư phải có chiến lược, định hướng mở rộng
thị trường và đầu tư lớn sang khu vực và
Việt Nam.
- Cam kết,
định hướng đầu tư lâu dài trong khu vực và Việt Nam
- Đầu
tư vào lĩnh vực công hệ cao, tạo thêm giá trị gia tăng, sử dụng nhiều lợi thế cạnh
tranh của Việt Nam.
- Góp
phần thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam, góp phần hoàn thiện giá trị
cho cụm liên kết ngành, tạo cơ hội cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu
hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
- Góp
phần nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm tiêu dùng trong nước, thay thế
hàng nhập khẩu.
- Tạo
nhiều việc làm trong dài hạn.
- Không
gây ô nhiễm môi trường, tiết kiệm năng lượng.
Trên cơ
sở đó chú trọng vào một số đối tác:
Nhật Bản: cần thúc đẩy những lĩnh vực hợp
tác trong chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác với
Nhật Bản hướng tới 2020 tầm nhìn 2030 trong 6 lĩnh vực (chế biến nông thủy sản,
máy nông nghiệp, điện tử, sản xuất ô tô và phụ tùng ô tô, đóng tàu và công nghiệp
môi trường và tiết kiệm năng lượng), hướng vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây
là tiền đề tốt để định hướng cho các cơ quan của chính phủ và doanh nghiệp của
hai bên.
Hàn Quốc: tập trung vào các lĩnh vực điện
tử, sản xuất cơ khí, năng lượng, công nghiệp nặng và thiết bị công nghiệp, chế
biến nông thủy sản… Riêng đối với lĩnh vực dệt may, để đón đầu Hiệp định TPP và
FTA Việt Nam-Hàn Quốc, lựa chọn một số địa phương phù hợp để thu hút nhà đầu tư
Hàn Quốc vào đầu tư trong lĩnh vực dệt, nhuộm …
Đài Loan: trong thời gian tới cần tập
trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp đang sản xuất, kinh doanh trên địa bàn,
đặc biệt hỗ trợ các doanh nghiệp bị tác động của các cuộc biểu tình vào tháng
5/2014.
- Riêng
với Mỹ và EU: cần xây dựng chính sách xúc tiến riêng, tiếp cận các công ty tài
chính, tư vấn quốc tế và hướng tới các Tập đoàn đa quốc gia hướng tới các ngành
dịch vụ chất lượng cao, dịch vụ tài chính, y tế, giáo dục, phát triển năng lượng,
cơ sở hạ tầng...
Những định
hướng và giải pháp quan trọng nêu trên sẽ là góp phần thúc đẩy các hoạt động
xúc tiến đầu tư của các địa phương trong năm 2015 đáp ứng được các mục tiêu đề
ra của Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh năm 2015, đồng thời
đáp ứng được chỉ đạo của Chính phủ về tăng cường hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu
tư, tránh trùng lặp, lãng phí./.