Xu hướng đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc
Đến nay, Hàn Quốc
đã đầu tư ra nước ngoài khoảng 59 nghìn dự án với tổng số vốn đăng ký đạt 387,5
tỷ USD và 270 tỷ USD tỷ USD vốn giải ngân.
Về đối tác đầu tư, Hàn Quốc đã có dự án đầu tư ra tất cả các
khu vực trên thế giới với dự án tại 185 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, tập
trung vào các quốc gia Trung Quốc (tổng vốn
đăng ký đạt 83.3 tỷ USD bao gồm Hong Kong), Hoa Kỳ (76.5 tỷ USD), Việt Nam, Úc, Hà Lan, Canada, Indonesia ...
Về lĩnh vực đầu tư, Hàn Quốc đầu tư chủ yếu tập trung vào
lĩnh vực công nghiệp chế tạo (122 tỷ USD vốn đăng ký); khai khoáng (85 tỷ USD);
tài chính, bảo hiểm (41 tỷ USD); bán buôn, bán lẻ (33,7 tỷ USD); kinh doanh bất
động sản (26,3 tỷ USD); dịch vụ chuyên môn, khoa học và kỹ thuật (20,4 tỷ USD);
xây dựng (9,9 tỷ USD); CNTT (7,1 tỷ USD); giao thông (5,5 tỷ USD) dịch vụ lưu
trú ăn uống (5 tỷ USD) ... Việc tập trung 56% tổng vốn đầu tư vào 02 lĩnh vực
công nghiệp chế tạo và khai khoáng xuất phát từ nhu cầu khách quan của nền kinh
tế Hàn Quốc với thế mạnh về lĩnh vực điện tử, may mặc, công nghiệp nặng, ô tô,
cơ khí, sản xuất thép ... cũng như nguồn tài nguyên trong nước gần như bằng
không. Bên cạnh đó, sau một thời gian dài tích lũy tư bản, kinh nghiệm quản lý,
nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm, thành công trong việc quảng bá văn hóa
Hàn Quốc ... các doanh nghiệp Hàn Quốc đang đẩy mạnh việc đầu tư ra nước ngoài
trong các lĩnh vực phi sản xuất như: tài chính, bảo hiểm; bán buôn, bán lẻ;
kinh doanh bất động sản; dịch vụ chuyên môn khoa học và kỹ thuật, CNTT, dịch vụ
lưu trú, ăn uống ...
Về mục đích đầu tư, Hàn Quốc đầu tư ra nước ngoài với các mục
tiêu tiếp cận thị trường (chiếm 36% mục
đích đầu tư); tiết giảm chi phí sản xuất (31%); tiếp cận nguồn nguyên liệu; tiếp cận công nghệ nguồn; tránh rảo
cản thương mại và đầu tư kết hợp phát triển thương mại.
Về dòng vốn đầu tư qua các năm, sau khi bắt đầu thực hiện hoạt động
đầu tư ra nước ngoài từ năm 1968, dòng vốn ĐTRNN của Hàn Quốc cơ bản được chia
thành 3 giai đoạn thăng, trầm chính sau (1) sau khi tổ chức Olympics 1988,
Chính phủ nới lỏng các quy định về quản lý ĐTRNN và chuyển ngoại tệ ra nước
ngoài, làn sóng ĐTRNN của Hàn Quốc bắt đầu có sự tặng trưởng mạnh (cùng với năng lực cạnh tranh quốc gia, lớn mạnh
của các Chaebol); (2) sau khi Hàn Quốc gia nhập tổ chức OECD và GDP đầu người
đạt ngưỡng 10.000 USD vào năm 1995 và giai đoạn tăng trưởng nóng của kinh tế thế
giới giai đoạn 1994 - 1997; (3) giai đoạn phát triển nóng của kinh tế thế giới
giai đoạn 2004 - 2008. Xen kẽ với 3 giai đoạn trên là 2 thời kỳ trầm lẳng về
ĐTRNN của Hàn Quốc do khó khăn của thời điểm khủng hoảng kinh tế Đông Á năm
1997 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008.
Nhìn chung, Chính
phủ Hàn Quốc không xây dựng những chính sách, định hướng cụ thể cho các doanh
nghiệp đầu tư ra nước ngoài mà đề Bàn tay vô hình (Invisible hand) tự động điều tiết các hoạt động đầu tư, kinh doanh
của khối doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời, Chính phủ có xu hướng ủng hộ (thông qua 04 hình thức hỗ trợ nêu phía dưới
cũng như một số tác động chính trị hoặc kết hợp đầu tư và cho vay ưu đãi EDCF)
các doanh nghiệp trong các lĩnh vực khai khoáng, sử dụng nhiều năng lượng, đầu
tư với mục tiêu tiếp cận thị trường nước sở tại, đầu tư với mục tiêu tiếp cận
công nghệ nguồn, hiện đại (thông qua hình
thức M&A các công ty thuộc các nước OECD) ... đầu tư ra ngoài ngoài.
Hàn Quốc cũng không khuyến khích doanh nghiệp công nghệ cao đầu tư ra nước
ngoài với mục tiêu sản xuất để xuất khẩu sang các nước thứ 3 để duy trì nguồn
thu thuế, việc làm và dịch vụ liên quan trong nước. Tuy nhiên, nhằm khuyến
khích và hỗ trợ việc đầu tư ra nước ngoài tập trung vào các doanh nghiệp SMEs,
chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng 4 nhóm chính sách lớn nhằm hỗ trợ doanh nghiệp
như hỗ trợ về tài chính (1) Chủ yếu thông qua Ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn Quốc
Korea Eximbank như hỗ trợ cho vay tối đa 90% tổng vốn đăng ký đầu tư đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ (2) Tổng công ty bảo hiểm xuất khẩu nhà nước bảo lãnh
các khoản đầu tư trực tiếp và gián tiếp; hỗ trợ về thuế và thúc đẩy ký các hiệp
định về tránh đánh thuế hai lần và bảo hộ đầu tư (3) hỗ trợ xúc tiến đầu tư
thông qua Cơ quan xúc tiến thương mại và đầu tư Hàn Quốc KOTRA chủ yếu cung cấp
thông tin và thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp vừa
và nhỏ và (4) nới lỏng và đơn giản hóa các quy định về đăng ký ĐTRNN.
Xu hướng đầu tư của Hàn Quốc vào khu vực
ASEAN
ASEAN là khu vực quan trọng thứ 3 về ĐTRNN của Hàn
Quốc sau Bắc Mỹ, Trung Quốc với số vốn đăng ký đầu tư lũy kế đạt khoảng 70 tỷ
USD (giá trị giải ngân khoảng 39 tỷ USD đạt
khoảng 57% thấp hơn giá trị giải ngân chung là 68%) theo thứ tự các nước:
Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Singapore, Myanmar, Cambodia, Philippines,
Thailand, Laos ... Về dòng vốn ĐTRNN của Hàn Quốc vào khu vực ASEAN qua các năm
nói chung có cùng xu hướng với dòng vốn ĐTRNN trên toàn thế giới. Tuy nhiên, tốc
độ ĐTRNN của Hàn Quốc vào khu vực ASEAN sau giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn
cầu 2008 cao hơn so với mặt bằng chung.
Trước đây, ĐTRNN của Hàn Quốc vào ASEAN chủ yếu tập
trung vào lĩnh vực khai khoáng, công nghiệp chế tạo thâm dụng lao động (để xuất khẩu sang thị trường nước thứ 3).
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của các nước trong khu vực
cũng như sự lớn mạnh về sức cạnh tranh về vốn, công nghệ của các doanh nghiệp
Hàn Quốc, đầu tư vào các lĩnh vực phát triển hạ tầng, dịch vụ, tài chính, bảo
hiểm, giải trí, CNTT, xây dựng, bất động sản, logistic, bán buôn, bán lẻ ... với
mục tiêu thâm nhập thị trường các nước bản địa và trong khu vực ASEAN có xu hướng
gia tăng mạnh từ đầu thế kỷ 21.
Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam
Sau 26 năm thực hiện các hoạt động
đầu tư vào Việt Nam, xu hướng và mục đích đầu tư của Hàn Quốc có nhiều điểm
tương đồng với xu thế đầu tư ra nước
ngoài nói chung của Hàn Quốc. Đến nay, Hàn Quốc là đối tác đầu tư nước ngoài lớn
nhất tại Việt Nam cả về quy mô với tổng vốn đầu tư và số dự án với tổng vốn
đăng ký đạt 36,71 tỷ USD và 4.063 dự án đầu tư còn hiệu lực. Doanh nghiệp FDI
Hàn Quốc là thành phần quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, sử dụng trên 50 vạn
lao động và đống góp trên 25% tổng giá trị xuất khẩu Việt Nam năm 2013.
Việt Nam là đối tác đầu tư ra nước
ngoài lớn thứ 3 của Hàn Quốc sau Mỹ, Trung Quốc (với 3.112 dự án; 18.1 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký và 10,7 tỷ USD vốn giải
ngân lũy kế theo thống kê của Ngân hàng Korea Eximbank). Chính phủ Hàn Quốc
nói chung khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam, có chính sách hỗ
trợ, thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài, trong đó coi Việt Nam là một địa bàn đầu tư
chiến lược với ưu thế về (1) nguồn lao động cạnh tranh trong lĩnh vực công nghiệp
chế biến, chế tạo và lắp ráp (2) thị trường tiêu thụ tiềm năng, có nhiều điểm
tương đồng với các sản phẩm Hàn Quốc và tương đối mở - dễ tiếp cận (3) ổn định
chính trị và quan hệ chính trị, văn hóa 02 nước liên tục phát triển (4) vị trí
địa lý thuận lợi (5) chính sách ưu đãi tương đối cạnh tranh (6) Chiến lược đầu
tư China +1 ... so với mặt bằng chung các quốc gia thu hút FDI Hàn Quốc có cùng
trình độ phát triển như Indonesia, Sri Lanka, Phillipines, Thái Lan, Cambodia,
Myanmar ... Các doanh nghiệp Hàn Quốc rất quan tâm tới Việt Nam thể hiện qua số
doanh nghiệp Hàn Quốc vào Việt Nam tìm kiếm cơ hội đầu tư có xu hướng tăng lên
trong những năm qua.
Trong những năm qua, các doanh nghiệp
FDI Hàn Quốc hoạt động tương đối tốt. Hiện nay, khoảng 95%
các dự án đầu tư của Hàn Quốc được thực hiện bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ (quy mô dưới 500 người, doanh thu dưới 150
triệu USD) chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch
vụ. Trong đó, các dự án này chủ yếu tập trung vào các dự án gia công trong lĩnh
vực công nghiệp nhẹ như ngành may mặc, sản xuất giày, dép ... Tuy nhiên, thời
gian gần đây đã bắt đầu có sự chuyển biến về chất khi xuất nhiều khối doanh
nghiệp vệ tinh cho các TNCs Hàn Quốc đầu tư tại Việt Nam vào lĩnh vực công nghệ
cao, công nghệ điện tử ...
Các Tập đoàn
lớn của Hàn Quốc tuy chỉ chiếm khoảng 5% số dự án nhưng đạt hơn 70% tổng vốn
đăng ký đầu tư tại Việt Nam tập trung vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo;
kinh doanh bất động sản; xây dựng, dịch vụ ...
đóng góp tích cực cho ổn định và phát triển kinh tế như Samsung, Doosan, LG, Posco,CJ, Taekwang,
Hyosung, ...
Phân theo ngành, Hàn Quốc đã đầu tư vào
18/21 ngành kinh tế của Việt Nam, trong đó đứng đầu là lĩnh vực công nghiệp chế
biến, chế tạo (2.471 dự án, tổng vốn đầu
tư 23,649 tỷ USD, chiếm 60,81% tổng vốn đầu tư đăng ký và 63,93% số dự án).
Tiếp theo là lĩnh vực kinh doanh bất động sản (80 dự án có tổng vốn đầu tư đăng ký 6,98 tỷ USD, chiếm 19,69 % tổng vốn đầu tư đăng ký và chỉ 1,9% số dự án).
Đứng thứ 3 là lĩnh vực xây dựng (555 dự
án, tổng vốn đầu tư đăng ký 2,395 tỷ USD chiếm 13,66% tổng vốn đăng ký và 6,52
% số dự án).
Từ năm 2009, FDI Hàn Quốc
vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng tăng mạnh, từ mức 60%
giai đoạn trước lên mức trên 80%. Ngoài ra, đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, lắp
ráp thiết bị điện tử, công nghiệp, công nghệ cao chiếm ưu thế so với các dự án
công nghiệp nhẹ, thâm dụng lao động trước đây.
Phân theo địa phương, trừ 02 dự án thăm dò, khai
thác dầu khí, các nhà đầu tư Hàn Quốc có mặt ở 49 địa phương của cả nước theo
thứ tự: Hà Nội (848 dự án có tổng vốn
đăng ký 5,284 tỷ USD); Thái Nguyên (40 dự án có tổng vốn đăng ký đạt 4,643 tỷ
USD); Đồng Nai (307 dự án có tổng vốn
đăng ký 4,437 tỷ USD); TP Hồ Chí
Minh (979 dự án có tổng vốn đăng ký 3,954
tỷ USD); Bà Rịa -Vũng Tàu (59 dự án
có tổng vốn đăng ký 3,64 tỷ USD); Hải Phòng (61 dự án có tổng vốn đăng ký 2,75 tỷ USD).
Nhìn chung các địa
phương có nhiều dự án FDI Hàn Quốc đều có đặc điểm chung nằm tại 02 đầu tàu
kinh tế của cả nước quanh 02 đô thị lớn nhất là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có lợi
thế về hạ tầng giao thông, năng lượng, nguồn nhân lực, logistic, điều kiện sinh
sống cho người nước ngoài thuận lợi, thị trường tiêu thụ lớn và tiềm năng ...
Phân theo hình thức đầu
tư, đầu tư của Hàn Quốc vào
Việt Nam chủ yếu tập trung vào hai hình thức chính là 100% vốn nước ngoài (3.584 dự án / 31,16 tỷ USD) và liên doanh
(412 dự án / 4,54 tỷ USD). Cùng với
việc đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất, sự am hiểu thị trường bản
địa, nới lỏng điều kiện đầu tư theo cam kết khi gia nhập các Tổ chức quốc tế của
Việt Nam ... doanh nghiệp Hàn Quốc có xu hướng ưu tiên đầu tư theo hình thức
100% FDI (với tỷ lệ khoảng 95% hiện nay
so với dưới 80% giai đoạn trước năm 2005)
Về lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài, Việt Nam hiện
có 24 dự án đã đầu tư sang Hàn Quốc với quy mô khiêm tốn, với tổng số vốn đầu
tư của nhà đầu tư Việt Nam là 10,48 triệu USD, đứng thứ 31/63 quốc gia và vùng
lãnh thổ có hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam. Các dự án đều có quy mô
nhỏ chủ yếu trên lĩnh vực dịch vụ, thương mại (trung bình mỗi dự án có quy mô 436.666 USD).
Quan
hệ thương mại Việt Nam - Hàn Quốc
Trong
những năm qua, nhất là từ khi hai nước ký Hiệp định Thương mại, quan hệ thương
mại giữa hai nước phát triển mạnh, từ 500 triệu USD năm 1992 lên 2,1 tỷ năm
2000 và năm 2013 đạt 27,3 tỷ USD. Hai nước đặt mục tiêu nâng kim ngạch thương mại
song phương lên 70 tỷ USD vào năm 2020, dự kiến sẽ chiếm 30% tổng kim ngạch
thương mại Asean - Hàn Quốc (200 tỷ USD).
Xét theo quốc gia đơn lẻ, đến năm 2013, Hàn
Quốc đứng ở vị trí thứ 3 trong 10 đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt
Nam, chỉ sau Trung Quốc, Mỹ. Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 và là
thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng bình quân kim
ngạch thương mại song phương Việt Nam - Hàn Quốc trong 10 năm qua (2001-2010) rất
cao, đạt trên 23%.
Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Hàn Quốc là:
máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; điện thoại các loại và linh kiện; vải
các loại; chất dẻo nguyên liệu; sắt thép các loại; máy móc, thiết bị, dụng cụ,
phụ tùng khác…; trong đó chủ yếu là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
(chiếm trên 20% tổng kim ngạch nhập khẩu
từ Hàn Quốc sang Việt Nam).
Cơ cấu mặt
hàng Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc chủ yếu là: hàng dệt may; hàng thuỷ sản;
dầu thô; phương tiện vận tải; gỗ và các sản phẩm gỗ; xơ, sợi dệt các loại…,
trong đó chủ yếu là hàng dệt may (chiếm trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang Hàn Quốc).
Mặc dù quan hệ
thương mại giữa hai nước mang tính bổ trợ, ít có các mặt hàng cạnh tranh trực
tiếp, tuy nhiên, trong những năm qua, Hàn Quốc là một trong những đối tác mà Việt
Nam có thâm hụt thương mại cao nhất (năm
2013 là 14,067 tỷ USD) do Việt Nam phải nhập khẩu máy móc thiết bị, tư liệu
sản xuất. Thời gian tới, vấn đề này sẽ khó giải quyết một cách căn bản do nền
công nghiệp sản xuất Việt Nam còn tương đối yếu kém và nhà đầu tư Hàn Quốc tiếp
tục có xu hướng mở rộng sản xuất tại Việt Nam.
Về quan hệ hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam là nước
thu hưởng viện trợ không hoàn lại và vay tín dụng lớn nhất của Hàn Quốc. Trong
đó, Việt Nam tiếp nhận 20% tổng giá trị cho vay tín dụng ưu đãi EDCF và có quy
mô lớn gấp 3 lần nước thứ 2 với tổng giá trị cam kết đạt khoảng 1,9 tỷ USD và tổng
số vốn giải ngân đạt gần 900 triệu USD.
Cùng với việc Lãnh đạo 02 nước chính thức tuyên bố kết thúc đàm phán Hiệp
định thương mại tự do song phương vào tháng 12/2014, để tiếp tục đẩy mạnh quan
hệ hợp tác trong lĩnh vực kinh tế giữa hai nước trong thời gian tới, Việt Nam cần
nghiên cứu tăng cường các biện pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác trong lĩnh vực đầu
tư như sau:
- Tiếp
tục khuyến khích, thu hút các tập đoàn lớn của Hàn Quốc hoạt động trong các
lĩnh vực công nghệ cao, điện tử, công nghiệp chế biến, chế tạo, năng lượng,
phát triển hạ tầng, xây dựng các Khu tổ hợp công nghệ chuyên sâu, đầu tư phát
triển hạ tầng KCN, dịch vụ chất lượng cao, y tế, nông nghiệp hiện đại, công nghệ
thông tin, ... và khối doanh nghiệp vừa và nhỏ (CNHT) đầu tư vào Việt Nam. Việc thu hút thành công các dự án sản xuất
linh kiện (CNHT) sẽ gián tiếp góp phần giảm nhập siêu từ Hàn Quốc, Trung Quốc
trong thời gian tới.
- Hợp
tác với Chính phủ Hàn Quốc chia sẻ kinh nghiệm trong việc xây dựng chính sách
thu hút, quản lý đầu tư nước ngoài, trong đó, đặc biệt là công tác hỗ trợ nhà đầu
tư sau cấp phép và các hoạt động xúc tiến và quản lý đầu tư trực tuyến. Kết nối
với Chính quyền địa phương, Hiệp hội doanh nghiệp, Ngân hàng, Quỹ đầu tư, Công
ty tư vấn, công ty luật Hàn Quốc để thu hút FDI từ các doanh nghiệp SMEs từ các
địa phương này.
- Đẩy
mạnh hoạt động XTĐT tại chỗ hỗ trợ doanh nghiệp đã có dự án đầu tư, kinh doanh
tại Việt Nam cũng như cơ chế đối thoại với cộng đồng người Hàn Quốc (hiện là cộng đồng người nước ngoài lớn nhất
với khoảng 12 vạn người thường xuyên sinh sống tại Việt Nam).
- Tích
cực xây dựng mối quan hệ với các kênh truyền thông, đặc biệt về lĩnh vực kinh tế
để có thể gián tiếp định hướng, truyền tải thông tin về tình hình kinh tế, môi
trường kinh doanh, cơ hội hợp tác đầu tư Việt Nam cho cộng đồng doanh nghiệp
Hàn Quốc.
-
Khuyến khích việc đầu tư sang Hàn Quốc theo hình thức M&A các doanh nghiệp
SME hoặc Venture Company trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ cao và sản
xuất linh kiện là phương thức tiếp cận ngắn nhất đến thị trường và các sản phầm
công nghệ cao.
- Nghiên cứu xây dựng kênh liên hệ định
kỳ, thường xuyên giữa đại diện chính phủ 02 nước về lĩnh vực đầu tư để hỗ trợ,
giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc doanh nghiệp Hàn Quốc hoạt động tại Việt
Nam.