Quan
điểm của Đảng về FDI
Việt Nam đã chuyển từ
trang thái thu hút FDI trước đây sang hợp tác FDI hiện nay.
Ban
hành Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ
Chính trị
Để lãnh đạo toàn diện
về FDI, Bộ Chính trị, Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành một Nghị quyết riêng về
FDI. Đó là Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng
hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước
ngoài đến năm 2030. Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ lúc đó với cương vị là Ủy
viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, là người rất tâm huyết, trực tiếp
chỉ đạo và tham gia xây dựng từng nội dung của Dự thảo Nghị quyết quan trọng
này.
Nghị quyết số 50-NQ/TW đã nhấn mạnh 05 quan điểm chỉ đạo, mục
tiêu tổng quát, 05 mục tiêu cụ thể và 07 nhóm giải pháp, với 36 giải pháp cụ thể
nhằm hoàn thiện thể chế, chính sách hợp tác đầu tư nước
ngoài có tính cạnh tranh cao, hội nhập quốc tế; đáp ứng yêu cầu đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, bảo vệ môi trường, giải quyết tốt
các vấn đề xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của
nền kinh tế; khắc phục căn bản những hạn chế, bất cập đang tồn tại trong xây dựng,
hoàn thiện và tổ chức thực hiện thể chế, chính sách về hợp tác đầu tư nước
ngoài, tạo điều kiện thuận lợi để chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài
có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu
chí đánh giá chủ yếu. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới,
công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có
tác động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Bài học thu hút FDI
Trong quá trình tổng kết gần 35 năm thu hút và hợp tác FDI, đã rút ra các
bài học kinh nghiệp như sau:
Một là, kết
hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong thu hút và sử dụng ĐTNN. Ngoại
lực là quan trọng, nội lực là quyết định. Luôn xác định khu vực ĐTNN là một bộ phận của nền
kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh.
Hai là, hợp
tác ĐTNN là xu thế tất yếu trong nền kinh tế toàn cầu có tính cạnh tranh cao giữa
các quốc gia. Tạo lập môi trường đầu tư
kinh doanh thuận lợi, an toàn sẽ thu hút được cả nguồn vốn bên trong và bên
ngoài. Các doanh nghiệp nội địa ngày một trưởng thành là nhân tố quan trọng để
thu hút các dự án ĐTNN sử dụng công nghệ cao, tạo khả năng lan tỏa và chuyển
giao công nghệ hiệu quả;
Ba là, dòng vốn ĐTNN bị tác động lớn từ những biến động về
địa chính trị, chủ trương của các nước lớn và những xu hướng vận động của kinh
tế thế giới; đòi hỏi phải có chính sách ứng phó: (i) chủ động,
linh hoạt trong ngắn hạn; và (ii) toàn diện và tương đối ổn định
trong trung và dài hạn;
Bốn là, thu hút và sử dụng ĐTNN là thước đo chất lượng thể
chế, năng lực của bộ máy quản lý nhà nước, trình độ quản trị quốc gia, ngành,
lĩnh vực và địa phương; Quốc gia nào có chất lượng thể chế tốt hơn,
môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh hơn sẽ thu hút được nhiều ĐTNN hơn. Phân cấp mạnh mẽ cho địa phương để tăng tính chủ động,
sáng tạo nhưng gắn với cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ.
Năm là, việc xây dựng quan hệ đối tác bình đẳng, bền chặt,
hiệu quả với nhà ĐTNN, cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với việc phát hiện, tháo gỡ những hạn chế, bất cập về chính
sách, pháp luật ảnh hưởng đến hoạt động ĐTNN, từ đó củng cố niềm tin cho cộng đồng
nhà ĐTNN.
Vai trò, đóng góp của ĐTNN đối với KTXH
Kể từ năm 1987, thời điểm thông qua Luật ĐTNN, cùng với
công cuộc đổi mới theo tinh thần Đại hội đang lần thứ VI, nền kinh tế Việt Nam
bắt đầu mở cửa, dần hội nhập với nền kinh tế thế giới, trong đó, ĐTNN đóng vai
trò như một “cú hích”, tạo sự đột phá, vừa bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu
tư phát triển, vừa khơi dậy các nguồn lực trong nước để khai thác, tận dụng các
tiềm năng, lợi thế, đưa đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn. Lũy kế tính đến
ngày 20/3/2022, cả nước có 34.815 dự án ĐTNN còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký
422,8 tỷ USD và tổng vốn thực hiện khoảng 256 tỷ USD, bằng 60,5% tổng vốn đăng
ký còn hiệu lực. Đóng góp quan trọng của dòng vốn FDI vào sự phát triển kinh tế
chung của đất nước trong 35 năm qua thể hiện trên nhiều khía cạnh như sau:
Trước hết, ĐTNN là nguồn lực quan trọng đóng góp lớn vào
tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội và đã trở thành một động lực tăng trưởng
quan trọng của nền kinh tế. Tỷ trọng ĐTNN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã
tăng dần, từ gần 15% năm 2005 lên 23,7% năm 2021. Đóng góp của ĐTNN vào tăng
trưởng kinh tế cũng ngày càng cao, từ 6% giai đoạn 1988-1996, 13,5% giai đoạn 1997-2005, 18,6% giai đoạn
2006-2015 và giai đoạn 2016-2020 là 21,3%.
Thứ
hai, khu vực ĐTNN đóng góp lớn và ngày càng tăng vào thu ngân sách nhà nước
với giá trị tăng từ 1,8 tỷ USD (giai đoạn 1994 - 2000) lên 14,2 tỷ USD (giai đoạn
2001 - 2010). Giai đoạn 2011 - 2015, thu ngân sách từ khu vực FDI đạt 23,7 tỷ
USD, chiếm gần 14% tổng thu ngân sách; giai đoạn 2016 – 2020, đóng góp hơn 45,5
tỷ USD, chiếm 21,3% tổng thu ngân sách nhà nước.
Thứ ba, ĐTNN đã góp phần
quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hiện nay, 59,2% vốn ĐTNN tập
trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, tạo ra trên 50% giá trị sản
xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền
kinh tế, như viễn thông, dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin..., tạo nền tảng
quan trọng cho tăng trưởng dài hạn, cũng như thúc đẩy quá trình hiện đại hóa -
công nghiệp hóa của đất nước. Bên cạnh đó, ĐTNN đã góp phần phát triển nhiều ngành
dịch vụ chất lượng cao, như tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn
luật, vận tải biển, logistics, giáo dục - đào tạo, y tế, siêu thị, khách sạn,
du lịch...; tạo ra phương thức mới trong phân phối hàng hóa, tiêu dùng, góp
phần kích thích hoạt động thương mại nội địa; chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp,
nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu, tạo ra một số phương thức sản
xuất mới, góp phần cải thiện tập quán canh tác và điều kiện hạ tầng yếu kém,
lạc hậu ở một số địa phương.
Thứ tư, ĐTNN thúc đẩy và mở
rộng thị trường xuất khẩu, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và từng bước
đưa Việt Nam tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Khu vực ĐTNN
cũng đã thực hiện chuyển giao công nghệ ở một số ngành, lĩnh vực và có tác động
lan tỏa công nghệ nhất định tới khu vực doanh nghiệp trong nước; thúc đẩy phát
triển công nghiệp hỗ trợ...
Thứ năm, việc thu hút và sử dụng ĐTNN trong 35 năm qua đã góp phần tích cực,
giúp từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo lập
môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, hấp dẫn, tiệm cận dần các chuẩn mực
quốc tế; không ngừng nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp,
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Chính
sách, cơ chế thu hút ĐTNN chung
- Liên tục hoàn thiện luật pháp,
chính về đầu tư nước ngoài cho phù hợp và theo kịp với những biến động của kinh
tế toàn cầu và những thay đổi trong chiến lược thu hút FDI của các nước trên thế
giới; đồng thời tạo môi trường đầu tư kinh doanh cạnh tranh, thông thoáng, tháo
gỡ các khó khăn, vướng mắc về chính sách để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt
động của các doanh nghiệp, nhà đầu tư. Để tháo gỡ nhanh chóng và triệt
để các khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, Quốc hội và Chủ tịch Quốc hội
Vương Đình Huệ đã rất quyết liệt trong việc cho phép việc xây dựng luật theo hướng
01 luật sửa đổi, bổ sung nhiều luật khác nhau về các vấn đề liên quan đến đầu
tư, kinh doanh.
- Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm các cân đối của nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh trong thu hút đầu tư
nước ngoài; có chiến lược đúng trong xử lý dịch COVID- 19, đồng thời đẩy nhanh
quá trình tiêm chủng để đưa các hoạt động kinh tế, xã hội trở lại bình thường,
xóa bỏ tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng hàng hóa, lao động tạo dựng niềm tin
và sự an tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.
- Ưu tiên các nguồn lực tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng động
bộ, trong đó chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện cần thiết để thu hút đầu tư như rà
soát, bổ sung quỹ đất sạch, rà soát lại quy hoạch điện và đôn đốc triển khai
các dự án điện, tăng cường việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bổ sung
chính sách và các biện pháp để phát triển công nghiệp hỗ trợ.
- Cải cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả quy định thủ tục hành
chính liên quan đến người dân, doanh nghiệp; thủ tục hành chính nội bộ giữa cơ
quan hành chính nhà nước; rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh,
thành phần hồ sơ và tối ưu hóa quy trình giải quyết thủ tục hành chính trên cơ
sở ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin; bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do
kinh doanh, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh, bảo đảm
cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch... Vấn đề này, ngày hôm qua trong
cuộc gặp mặt của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Vương Đình Huệ với đại diện các
doanh nghiệp Việt Nam tại Lào, nhiều ý kiến của doanh nghiệp đề nghị Quốc hội,
Chính phủ Lào xem xét, sửa đổ, bổ sung các quy định về việc cấp Giấy phép hoạt
động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp với thời hạn 05 năm thay vì 01 năm như hiện
nay; điều chỉnh quy định về thời hạn thăm dò, khảo sát khoáng sản dài hơn so với
quy định hiện hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư, kinh doanh
của doanh nghiệp…
- Xây dựng các quy định, tiêu chuẩn
như một bộ lọc mới nhằm lựa chọn các nhà đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến,
thân thiện với môi trường, có năng lực, khả năng chống chịu sức ép từ bên ngoài
để phát triển bền vững và bảo đảm an ninh quốc gia của đất nước.
- Thường xuyên đổi mới và tăng cường công tác xúc tiến đầu tư,
trong đó tập trung xúc tiến đầu tư thông qua các hình thức như: (i) Tăng cường
xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động tiếp xúc cấp cao của các nhà Lãnh đạo Đảng, Nhà nước với các Lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ và
các đối tác đầu tư lớn để tiếp cận các dự án đầu tư lớn, mang tính chiến lược;
(ii) Xúc tiến đầu tư tại chỗ (tăng cường công tác đối thoại giữa Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa
phương, các cơ quan chuyên môn với doanh nghiệp, nhà đầu tư để tập trung giải
quyết nhanh, dứt điểm các khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh thực hiện dự án, hỗ trợ
để các nhà đầu tư thành công, tiếp tục mở rộng đầu tư kinh doanh tại Việt Nam);
(iii) Chủ động tiếp xúc trực tiếp các nhà đầu tư lớn, nhất là các nhà đầu tư
chiến lược, thậm chí phải có chích sách ưu đại đặc biệt để giữ chân các nhà đầu tư trên tinh thần hai
bên cùng có lợi; (iv) Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ngoại giao, các hiệp hội
doanh nghiệp, các công ty tư vấn, công ty luật, ngân hàng, quỹ đầu tư để tiếp cận
lên danh sách các doanh nghiệp đang có quan tâm đến đầu tư tại Việt Nam để chủ
động tiếp cận, trao đổi, mời vào đầu tư tại Việt Nam; (v) Tổ chức các hoạt động
XTĐT theo hình thức trực tuyến trong bối cảnh Covid 19 phức tạp.
- Hỗ trợ doanh nghiệp trong đào tạo
và tuyển dụng lao động đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, đặc biệt nhu cầu của
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sau các đợt đứt gẫy về nguồn lao động. Bên cạnh
dạy kỹ năng nghề, cần đào tạo nâng cao kỷ luật lao động, các kỹ năng mềm, khả
năng hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm để lao động Việt Nam vừa có kỹ năng nghề
cao và có tính chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu lao động của doanh nghiệp trong
thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0./.
Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi COVID 19
- Thực hiện các biện pháp phòng,
chống dịch linh hoạt, hiệu quả để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh gắn với bảo đảm an toàn phòng, chống dịch.
- Đảm bảo ổn định sản xuất, lưu
thông hàng hoá thông suốt, hiệu quả, an toàn, khắc phục gián đoạn chuỗi cung ứng.
- Hỗ trợ cắt giảm chi phí, tháo gỡ
khó khăn về tài chính, dòng tiền cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Hỗ
trợ phục hồi doanh nghiệp: miễn giảm thuế, hỗ trợ lãi xuất, hỗ trợ người lao động,…;
- Tạo điều kiện thuận lợi về lao động,
nhập cảnh cho chuyên gia. Hiện nay đã bỏ hoàn toàn các hạn chế về nhập cảnh do
dịch bệnh.
- Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm
soát hiệu quả dịch COVID-19, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất
kinh doanh.
-
Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025;
-
Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp khu vực tư nhân kinh doanh bền vững giai đoạn
2022 -2025
Phân cấp quản lý ĐTNN
Hiện nay Việt Nam đã phân cấp hoàn
toàn việc cấp, điều chỉnh Giấy CNĐKĐT và quản lý dự án cho các địa phương. Các
Sở KHĐT và BQL KCN KKT là cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Bộ Kế hoạch
và Đầu tư chỉ thẩm định một số dự án quy mô lớn và làm chiến lược, chính sách về
ĐTNN. Việc phân cấp toàn diện có mặt được và hạn chế như sau:
* Mặt được:
- Rút ngắn thời gian làm thủ tục đầu
tư, góp phần cải thiện môi trường đầu tư
- Tránh quá tài công việc ở các cơ
quan Trung ương.
- Nâng cao năng lực quản lý và hỗ
trợ nhà đầu tư của cán bộ địa phương
- Việc hỗ trợ, giải quyết khó
khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư thuận lợi hơn do ko phải di chuyển lên trung
ương.
* Hạn chế
- Trung ưng khó thực hiện chức
năng điều phối thu hút đầu tư theo đúng định hướng trong từng thời kỳ. Thực tế
đã xuất hiện tình trạng đầu tư theo phong trào, theo số lượng, điều này làm ảnh
hưởng đến việc sử dụng các nguồn lực của các địa phương chưa hiệu quả.
- Cơ quan trung ương hạn chế trong
kinh nghiệm thực tiễn để làm chính sách.
- Sự cạnh tranh giữa các địa
phương dẫn đến thu hút dự án chất lượng thấp, ảnh hưởng đến môi trường, KT-XH.
Thực tế đã có xu hướng đầu tư theo phong trào, thiên về số lượng, làm ảnh hưởng
đến hiệu quả sử dụng nguồn lực.
- Năng lực cán bộ địa phương còn yếu,
khó khăn trong việc xử lý các trường hợp khó, gây khiếu kiện, khiếu nại.
* Kinh nghiệm phân cấp quản lý nhà
nước về đầu tư ở Việt Nam cho thấy:
Chủ trương phân cấp là đúng đắn, tạo
động lực to lớn để phát triển. Tuy nhiên, để công tác phân cấp thành công thì
lưu ý một số vấn đề sau: (i) Cần có lộ trình phù hợp, lựa chọn các ngành, lĩnh
vực, dự án (loại dự án, quy mô dự án và điều kiện nhất định) để phân cấp dần, bảo
đảm phù hợp điều kiện cần thiết và đầy chủ cho cả cơ quan phân cấp và cơ quan
được phân cấp (cả về con người, cơ sở vật chất, trong bối cảnh cải bộ máy và
ngân sách hành chính không tăng); (ii) Hệ thống pháp luật phải đồng bộ, đầy đủ,
trong đó quy định rõ những nội dung cấm đầu tư kinh doanh, hạn chế đầu tư kinh
doanh; điều kiện gia nhập thị trường; quy trình, thủ tục phải rõ rang, minh bạch;
(iii) Công tác quy hoạch và phải chú trọng; (iv) Nghiên cứu, đánh giá tác động
kỹ lưỡng trước khi thực hiện phân cấp (có thể tiến hành thí điểm trước tại một
số địa phương, từ đó rút kinh nghiệm để nhân rộng mô hình); (v) Chú ý tới năng
lực cán bộ, cơ sở vật chất, điều kiện thực hiện của cơ quan được phân cấp và
năng lực quản lý của cơ quan phân cấp sau khi thực hiện phân cấp; (vi) Tăng cường
công tác tập huấn, hướng dẫn cho các địa phương, đặc biệt là các địa phương
chưa có nhiều kinh nghiệm; (vii) Cơ quan Trung ương phải tăng cường công tác rà
soát, kiểm tra, giám sát “hậu phân cấp”; (viii) Tăng cường các công cụ quản lý
nhà nước như: cơ chế phối hợp giữa các cơ Trung ương ương với nhau, giữa trung
ương với địa phương; Xây dựng Hệ thông thông tin quốc gia về đầu tư để thực hiện
công tác quản lý và giám sát đầu tư có hiệu quả.
Nói tóm lại, thực hiện phân cấp mạnh mẽ cho địa phương để tăng tính chủ động,
sáng tạo nhưng gắn với cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ./.