Từ khi đất nước ta bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới
vào năm 1986 đến nay, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) có vai
trò ngày càng quan trọng trong tăng trưởng và phát triển kinh tế, đóng góp lớn
cho ngân sách nhà nước, tạo việc làm và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
Bên cạnh những đóng góp trực tiếp, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN còn có tác động
lan tỏa, thúc đẩy sự phát triển của các khu vực kinh tế khác. Trong đó sự kết nối,
liên kết giữa khu vực kinh tế có vốn ĐTNN với các khu vực kinh tế khác có vai
trò đặc biệt quan trọng để tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các khu vực kinh tế khác
cùng phát triển, góp phần nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh chung của nền
kinh tế. Bài viết này tập trung làm rõ sự cần thiết và các giải pháp để thúc đẩy
mối liên kết giữa khu vực kinh tế có vốn ĐTNN với khu vực kinh tế tư nhân và
kinh tế nhà nước nhằm phát huy tối đa nguồn lực của mọi thành phần kinh tế cho
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển khu vực kinh tế có vốn ĐTNN
Trong quá trình đổi mới, chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách khuyến
khích phát triển khu vực kinh tế có vốn ĐTNN, tạo điều kiện để thu hút nguồn lực
bên ngoài cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Nghị quyết số
19-NQ/TW ngày 17/7/1984, Bộ Chính trị đã đề ra định hướng hợp tác kinh tế với
nước ngoài. Tiếp đó, tháng 12/1986, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đã xác định
mục tiêu xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và mở cửa hợp tác ĐTNN;
trong đó xác định “phải có chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều
hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất
khẩu. Đi đôi với việc công bố Luật Đầu tư nước ngoài, cần có chính sách và biện
pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp
tác kinh doanh”. Đây là sự thay đổi lớn, mang tính bước ngoặt về nhận thức,
quan điểm đối với ĐTNN, làm cơ sở để ban hành Luật ĐTNN năm 1987.
Trong 30 năm tiếp theo, Đảng ta đã kịp thời có các chỉ đạo, định hướng về ĐTNN
tại các Nghị quyết Đại hội Đảng hoặc Hội nghị trung ương để có những điều chỉnh
phương hướng, chính sách, pháp luật phù hợp với bối cảnh thế giới và đất nước
trong từng thời kỳ. Quan điểm xuyên suốt của Đảng đối với ĐTNN là: (i) hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng,
cùng có lợi; (ii) tạo môi trường và
điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài đầu tư, kinh doanh; (iii) thống nhất từng bước chính sách, tạo mặt bằng pháp lý chung đối với
các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; (iv)
kinh tế có vốn ĐTNN là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích
phát triển; (v) kinh tế có vốn ĐTNN
bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh; (vi) gắn thu hút ĐTNN với giám sát quá trình thực thi, bảo đảm an ninh kinh
tế, hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường.
Ngày 20/8/2019, Bộ
Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu
quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Đây là lần đầu tiên, Bộ
Chính trị ban hành một nghị quyết chuyên đề về ĐTNN. Điều này cho thấy vai trò,
vị trí, tầm quan trọng của nguồn lực bên ngoài đối với sự phát triển đất nước
hiện nay và tính cấp bách của việc đề ra những chủ trương, chính sách mới để
lãnh đạo, định hướng ĐTNN sau hơn 30 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài.
Trong đó, một trong các giải pháp của Nghị quyết 50-NQ/TW là thúc đẩy liên kết giữa ĐTNN và đầu
tư trong nước; phát triển cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị, góp phần nâng cao
giá trị gia tăng nội địa, sức cạnh tranh của sản phẩm và vị trí quốc gia. Hỗ trợ
doanh nghiệp trong nước kết nối với doanh nghiệp ĐTNN, nâng cao năng lực hấp thụ
công nghệ, dần tiến tới tự chủ công nghệ và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Vai trò, đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN và các
khu vực kinh tế khác.
Thực tiễn cho thấy
ĐTNN gắn với quá trình 30 năm Đổi mới và có những đóng góp quan trọng vào sự
phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy ba chuyển đổi cơ bản của nền
kinh tế, đó là: (i) từ nền kinh tế kế
hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường, (ii) từ khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tập thể là chủ
yếu sang kinh tế nhiều thành phần, trong đó khu vực kinh tế tư nhân và khu vực
ĐTNN là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng và (iii)
từ một nền kinh tế đóng cửa, bị bao vây, cấm vận sang mở cửa, hội nhập sâu rộng
và toàn diện vào nền kinh tế thế giới.
Qua hơn 30 năm, các kết quả đạt được
đã khẳng định tính đúng đắn của chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với ĐTNN. Khu
vực kinh tế này đã có những đóng góp ngày càng quan trọng cho các thành tựu về
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, cụ thể là:
(i) ĐTNN là động lực quan trọng để Việt Nam từng bước phá bỏ thế bao vây cấm
vận, hiện thực hoá chủ trương “là bạn với các nước” trong thời kỳ đầu Đổi mới;
(ii) ĐTNN đã thực hiện
vai trò người công binh mở đường, thực hiện thí điểm các chính sách về kinh tế
thị trường, làm cơ sở tổng kết, đánh giá để áp dụng rộng rãi trong bối cảnh hệ thống
pháp luật chưa đầy đủ, kinh nghiệm quản lý nhà nước về kinh tế thị trường chưa
có;
(iii) ĐTNN đã trở thành
khu vực phát triển năng động, có đóng góp tích cực vào thành tựu tăng trưởng.
Đóng góp khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chiếm
trên 20% GDP, hơn 70% kim ngạch xuất khẩu. Góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu,
chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và từng bước đưa Việt Nam tham gia vào mạng
sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu;
(iv) Thực hiện chuyển
giao công nghệ ở một số ngành, lĩnh vực và có tác động lan tỏa công nghệ nhất định
tới khu vực doanh nghiệp trong nước như dầu khí, viễn thông, điện tử,...;
(v) Khơi dậy các nguồn lực
đầu tư trong nước để cùng hợp tác, cùng phát triển; tạo liên kết giữa khu vực
ĐTNN với khu vực trong nước, thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ;
(vi) Đóng góp đáng kể
trong tổng thu ngân sách nhà nước với tỷ trọng 25,8% tổng thu ngân sách nhà nước
năm 2019 và trên 26% năm 2020.
(vii) Tạo việc làm, chuyển
dịch cơ cấu lao động, phát triển nguồn nhân lực và năng suất lao động của nền
kinh tế. Khu vực ĐTNN đã tạo ra 4,51 triệu việc làm trực tiếp và khoảng 5 – 6
triệu lao động gián tiếp. Năng xuất lao động của khu vực ĐTNN cao gấp 2,7 lần
năng suất chung của nền kinh tế.
(viii) Góp phần thúc đẩy
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với hệ thống
luật pháp ngày càng minh bạch, phù hợp thông lệ quốc tế, môi trường đầu tư kinh
doanh thông thoáng, thuận lợi, khiến Việt Nam được đánh giá thuộc nhóm 12 quốc
gia, vùng lãnh thổ là điểm đến đầu tư tiềm năng trong giai đoạn từ 2017 đến
2020;
(ix) Góp phần nâng cao vị
thế đất nước, thúc đẩy quan hệ ngoại giao kinh tế của Việt Nam với các đối tác
song phương và đa phương sâu sắc hơn;
(x) ĐTNN là sản phẩm của
đổi mới tư duy kinh tế của Đảng, nhưng chính ĐTNN cũng là động lực góp phần để
thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; là
nhân tố mới, đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Khu vực kinh tế
tư nhân (gồm các doanh nghiệp ngoài nhà
nước và hộ kinh doanh cá thể) là nhóm có tỷ trọng cao nhất trong GDP, duy
trì mức đóng góp trên 40% GDP của nền kinh tế và có dấu hiệu tăng lên nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân tiếp
tục huy động được nguồn lực ngày càng tăng cho đầu tư sản xuất kinh doanh; thu
hút, tạo việc làm cho lực lượng lớn lao động trong nền kinh tế, chiếm khoảng gần
29% tổng số lao động. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là
khu vực doanh nghiệp đã tạo điều kiện để thúc đẩy quá trình sắp xếp, cải cách
khu vực DNNN trong thời gian qua. Chủ trương cho phép tư nhân tham gia vào một
số lĩnh vực cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích (chiếu sáng đô thị, cấp nước, thoát nước, vệ sinh môi trường, tư vấn,…),
khu vực mà trước đây được mặc định là chỉ do các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ
đã tạo điều kiện cho việc sắp xếp, đổi mới đối với các DNNN hoạt động trong các
lĩnh vực này. Quá trình tái cơ cấu, đổi mới DNNN mà trọng tâm là cổ phần hoá đã
tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia trở thành cổ đông, nhiều trường hợp
trở thành cổ đông chi phối trong một số ngành, lĩnh vực mà DNNN cần nắm giữ như
xây dựng dân dụng, xây dựng giao thông, v.v..
Bên cạnh khu vực kinh tế có vốn ĐTNN và kinh tế tư nhân,
khu vực kinh tế nhà nước vẫn tiếp tục là một thành phần quan trọng, góp phần bảo
đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; đóng góp lớn trong xây dựng và phát triển
hệ thống cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng cần thiết cho phát triển kinh tế - xã
hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà các thành phần kinh tế khác chưa có điều kiện
làm được do đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn lại chậm, không có khả năng sinh lời
trong ngắn hạn. Về cơ bản, hiệu quả kinh doanh của DNNN tuy không thấp hơn mức
bình quân của khu vực doanh nghiệp, nhưng chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ.
Thực
trạng liên kết giữa khu vực kinh tế có vốn ĐTNN với các khu vực kinh tế trong
nước.
Khu vực kinh tế ĐTNN đã tạo tiền đề, đồng
thời tạo tác động lan tỏa trực tiếp và gián tiếp đối với các khu vực kinh tế
khác của Việt Nam. Các doanh nghiệp ĐTNN đã mang đến cho Việt Nam vốn, kinh
nghiệm, công nghệ, năng lực và kỹ năng quản lý, góp phần làm tăng năng lực của
khu vực kinh tế trong nước và tăng sức cạnh tranh chung của nền kinh tế.
Tuy nhiên, mức độ kết nối, lan tỏa của khu vực đầu tư nước
ngoài đến khu vực kinh tế trong nước còn thấp, thu hút và chuyển giao công nghệ
từ khu vực ĐTNN đến khu vực trong nước còn chưa đạt được như kỳ vọng, chủ yếu
là gia công lắp ráp, tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành thấp, giá trị gia
tăng trên một đơn vị sản phẩm chưa cao. Trên thực tế, mối liên kết
giữa kinh tế tư nhân, kinh tế ĐTNN và DNNN đã hình thành nhưng còn rất hạn chế
và chưa phát huy được hết tiềm năng của từng khu vực. Hạn chế về liên kết giữa
ba khu vực được thể hiện ở một số điểm như sau:
Một là, các dự án
có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung ở một số công đoạn trong các ngành sử
dụng nhiều lao động, công nghệ trung bình như gia công (dệt may, da giày, chế
biến gỗ), lắp ráp (điện tử, ô tô, xe máy, v.v) và một số ngành chế biến thực phẩm.
Phần lớn nguyên, phụ liệu, phụ tùng và dịch vụ đi kèm cho sản xuất được nhập khẩu,
thay vì được cung ứng bởi các doanh nghiệp trong nước. Năng lực cung ứng của
các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế, chưa tham gia sâu được vào chuỗi giá trị
của các doanh nghiệp, tập đoàn đa quốc gia ở Việt Nam.
Hai là, từ phía các doanh
nghiệp ĐTNN, liên kết hàng dọc với các doanh nghiệp trong nước hiện vẫn còn yếu
(theo thống kê của VCCI thì chỉ 37% đầu
vào của ĐTNN được mua tại Việt Nam, trong đó một tỷ lệ đáng kể lại mua từ chính
các doanh nghiệp ĐTNN khác). Các doanh nghiệp ĐTNN hoạt động trong lĩnh vực
sản xuất công nghệ cao thường có xu hướng nhập hàng hóa đầu vào từ nước xuất xứ
của mình.
Ba là, tỷ lệ nội địa hóa thấp, bình quân khoảng 20% - 25%. Việt Nam nằm ở vị
trí thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu, giá trị gia tăng thấp. Đây là bằng chứng
cho thấy điều kiện tiến bộ công nghệ của doanh nghiệp trong nước chưa đủ đáp
ứng đòi hỏi chuỗi sản xuất và lắp ráp công nghệ cao của các tập đoàn kinh tế
lớn trên thế giới.
Bốn là, xét về hình
thức đầu tư, liên doanh là phương tiện hiệu quả nhất để Việt Nam học hỏi
kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực trình độ cao, song
tỷ trọng của hình thức này đang ngày càng giảm dần (tính lũy kế đến tháng 4/2021 tỷ lệ dự án liên doanh chỉ chiếm 13,4%,
trong khi tỷ lệ này năm 2010 là 17,2%).
Nguyên nhân của tình trạng trên trước
hết là do nhận thức về tầm quan trọng của việc kết nối này ở nhiều cấp độ còn hạn
chế, cùng với đó là cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, thiếu tầm nhìn dài hạn,….
Bên cạnh đó, các điều kiện để kết nối khá hạn chế như trình độ công nghệ, nguồn
nhân lực của các doanh nghiệp trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu để kết nối với
doanh nghiệp ĐTNN.
Ngoài ra, còn một nguyên nhân rất quan trọng nữa là do
chúng ta chưa có được một ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển để đáp ứng nhu cầu
cung cấp nguyên, vật liệu đầu vào cho các doanh nghiệp ĐTNN. Do đó, mặc dù khu
vực kinh tế có vốn ĐTNN giữ vai trò chủ chốt đối với tăng trưởng công nghiệp (trên 50% giá trị sản lượng công nghiệp)
và xuất khẩu (trên 70% giá trị xuất khẩu)
nhưng Việt Nam có nguy cơ bị “mắc kẹt” ở những nấc thang khá thấp trong chuỗi
giá trị toàn cầu, tỷ lệ nội địa hoá ở nhiều ngành công nghiệp còn thấp và chậm
cải thiện. Các DN trong nước hầu hết chưa đáp ứng được tiêu chuẩn và thiếu kinh
nghiệm liên kết với các DN ĐTNN nên số lượng các DN nội địa trở thành nhà cung ứng
cho các DN ĐTNN còn ít, nếu có cũng rất ít DN trở thành nhà cung ứng cấp 1, thậm
chí cấp 2 mà thông thường chỉ đạt được cấp 3, cấp 4.
Giải pháp để thúc đẩy sự liên kết giữa kinh tế
tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế nhà nước để tạo động lực mới
cho tăng trưởng
Quan điểm đối với thu hút nguồn vốn ĐTNN trong giai đoạn tới theo định
hướng tại văn kiện đại hội XIII của đảng và Nghị quyết 50 – NQ/TW của Bộ Chính
trị là cần phải chủ động thu hút, hợp tác ĐTNN có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu
quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Ưu tiên các dự
án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản
trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, kết nối chuỗi sản
xuất và cung ứng toàn cầu; có liên kết, chuyển giao công nghệ cho các doanh
nghiệp trong nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước tham gia có hiệu
quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Trong đó, để thực hiện mục tiêu thúc đẩy
liên kết, kết nối giữa khu vực ĐTNN với các khu vực kinh tế trong nước thì cần
thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
* Nhóm giải pháp về tăng cường
năng lực cho doanh nghiệp trong nước
Thứ
nhất, tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà
nước về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó chú trọng việc tạo lập được hệ thống
chính quyền kiến tạo, phục vụ cộng đồng kinh doanh, có các chế tài nghiêm khắc
và cơ chế hiệu lực, hiệu quả thực thi các chế tài nhằm xây dựng một môi trường
kinh doanh dựa trên các quy định của pháp luật và các quan hệ hợp đồng, dân sự
theo quy định của luật pháp. Bên cạnh đó, đẩy
mạnh cải cách hành chính mà trọng tâm là tạo đột phá trong cải cách thủ tục
hành chính và xem xét, cắt giảm các điều kiện kinh doanh không cần thiết để tạo
thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển.
Thứ hai, thực hiện đồng
bộ các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp
nhỏ và vừa (DNNVV) thông qua việc đảm bảo nguồn lực và thể chế hoàn chỉnh để
triển khai các nội dung hỗ trợ đã được quy định tại Luật Hỗ trợ DNNVV; trong đó
ngoài các nội dung hỗ trợ cơ bản về tín dụng, thuế, mặt bằng, công nghệ, v.v. cần
tập trung ưu tiên hỗ trợ DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị, hỗ
trợ DNNVV khởi nghiệp sáng tạo để góp phần tạo ra một lực lượng DN sáng tạo, có
thể tham gia và phát triển các chuỗi liên kết, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Thứ
ba, khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế
tư nhân đa sở hữu, phát triển thương hiệu mạnh và nâng cao tỷ lệ đầu tư cho hoạt
động nghiên cứu và phát triển (R&D). Cần tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế
tư nhân phát triển ở tất cả các ngành và lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Tập
trung hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới, sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát
triển nguồn nhân lực thông qua việc khuyến khích, hỗ trợ kinh tế tư nhân đầu tư
vào các hoạt động R&D, chuyển giao công nghệ; kết nối doanh nghiệp, ý tưởng
khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo với các nhà đầu tư, quỹ đầu tư; thúc đẩy hình
thành và phát triển các khu công nghệ cao, các vườn ươm công nghệ cao và các
doanh nghiệp khoa học công nghệ.
Thứ tư, nghiên cứu
hình thành một tổ chức nhằm liên kết các DNTN lớn trong nước hoặc DN tư nhân
trong nước với DN có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, các tập đoàn kinh tế lớn
ở nước ngoài trong quan hệ hợp tác thương mại, đầu tư và kinh doanh. Trên cơ sở
đó, sẽ hình thành một lực lượng DNTN dẫn dắt một số ngành, lĩnh vực ưu tiên
phát triển của đất nước, qua đó tăng cường tính liên kết giữa DN lớn và DNNVV
Việt Nam.
Thứ năm, đẩy mạnh cải cách và cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước thực chất và hiệu quả để tạo cơ hội phát triển cho kinh tế tư
nhân. Theo đó, DNNN chỉ tập trung đầu
tư vào những ngành, lĩnh vực có tính nền tảng, mang tầm chiến lược và có khả
năng dẫn dắt nền kinh tế hiện thực hóa chủ trương của Đảng về đổi mới mô hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; chuẩn bị thế và lực cho nấc thang giá trị
mới, thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế tri thức.
Nhà nước tiếp tục duy trì việc cung cấp dịch vụ công thiết yếu, phải có để đáp ứng
yêu cầu của xã hội mà khu vực tư nhân không muốn hoặc chưa đủ khả năng về nguồn
lực để tham gia. Thực hiện triệt để chủ trương cổ phần hóa, DNNN, thoái vốn nhà
nước tại doanh nghiệp ở các ngành, lĩnh vực mà khu vực tư nhân tham gia có hiệu
quả hơn, cạnh tranh hơn; Khuyến khích hơn nữa kinh tế tư nhân tham gia góp vốn,
mua cổ phần của các DNNN khi cổ phần hóa hoặc Nhà nước thoái vốn.
Thứ sáu,
phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ để kích thích
các DN trong nước phát triển, có đủ khả năng cung cấp nguồn nguyên, vật liệu, sản
phẩm đầu vào cho các doanh nghiệp ĐTNN, qua đó làm tăng tỷ lệ nội địa hoá của các
doanh nghiệp ĐTNN, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, chia sẻ kỹ năng quản trị hiện
đại cho các DN trong nước. Để thực hiện mục tiêu này, các bộ, ngành, địa phương
cần thực hiện tốt các giải pháp đã được ban hành tại Nghị quyết số 115/NQ-CP
ngày 6/8/2020 của Chính phủ về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ
trợ.
* Nhóm giải
pháp để thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp ĐTNN và doanh nghiệp trong nước.
Thứ nhất, có chính sách
khuyến khích các doanh nghiệp ĐTNN liên doanh, liên kết với doanh nghiệp trong
nước. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, các dự án liên doanh thường có hiệu
quả về chuyển giao công nghệ cao hơn so với các dự án 100% vốn nước ngoài. Cùng
với đó, cần yêu cầu và khuyến khích các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện các hoạt động
nghiên cứu và phát triển (R&D) tại Việt Nam. Những hoạt động này sẽ tác động
tích cực đến quá trình chuyển giao công nghệ. Các doanh nghiệp trong nước phải
nỗ lực nâng cao năng lực về tất cả các mặt, từ công nghệ đến năng lực, trình độ
của đội ngũ người lao động, quản lý. Chỉ khi đó, các doanh nghiệp ĐTNN mới tìm
đến đặt hàng và hỗ trợ hoàn thiện quy trình sản xuất đáp ứng yêu cầu của họ.
Thứ hai, cần xây dựng quy hoạch tổng
thể ngành, vùng, địa phương, trên cơ sở đó, rà soát lại việc sử dụng ĐTNN hiện
tại để có kế hoạch điều chỉnh, cơ cấu lại hợp lý. Ưu tiên các nhà đầu tư chiến
lược; tạo lập chuỗi sản xuất toàn cầu; ưu tiên doanh nghiệp công nghệ cao và
chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ ba, có chính sách
cụ thể để hỗ trợ và tăng cường sự kết nối giữa doanh nghiệp ĐTNN với các nhà
cung cấp trong nước, bao gồm việc xây dựng cơ sở dữ liệu các doanh nghiệp ĐTNN,
các nhà cung cấp, các dịch vụ kết nối, các chương trình xúc tiến đầu tư nhằm
thu hút các nhà đầu tư nước ngoài có chính sách ưu tiên, hỗ trợ các doanh nghiệp
trong nước. Trong thiết kế các khu công nghiệp riêng dành cho đầu tư ĐTNN, cần
tính đến sự kết nối với các khu, cụm công nghiệp dành cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Đặc biệt, phải tạo điều kiện, khuyến khích các doanh nghiệp, tập đoàn
thiết lập các trung tâm và mở rộng hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D)
có sự tham gia của đội ngũ kỹ sư trong nước.