Hợp đồng PPP không phải là khái niệm mới,
nhưng vẫn chưa có một định nghĩa khái luận đầy đủ, chính xác và rõ ràng về bản
chất hợp đồng PPP, bởi lẽ trên thực tế, mô hình, phương thức và các nội dung của
hợp tác công – tư được xây dựng và tiếp cận theo những phạm vi và cách thức
khác nhau, tùy thuộc vào các yếu tố về lịch sử, văn hóa, chính sách, luật pháp,
và mức độ phát triển của từng quốc gia.
Theo cách hiểu truyền thống, Hợp đồng PPP
(public private partnership) là thỏa thuận hợp tác giữa Nhà nước và khu vực tư
nhân trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp các dịch vụ công, theo
đó một phần hoặc toàn bộ công việc sẽ được chuyển giao cho khu vực tư nhân thực
hiện với sự hỗ trợ của Nhà nước.
Cũng có thể hiểu Hợp đồng hợp tác công – tư là
một khái niệm chung đề cập toàn bộ các yếu tố khác biệt và cách tiếp cận khác
nhau về hợp tác giữa Nhà nước và khu vực tư nhân, hoặc có thể chỉ đề cập đến một
phương thức hoặc một hình thức hợp tác cụ thể giữa nhà nước và khu vực tư nhân.
Điều này có thể được tham khảo qua các chính sách hợp tác công – tư của
Australia (public private partnership - PPP), Luật về thúc đẩy sáng kiến tài
chính tư nhân của Nhật Bản (private finance innitial - PFI), Luật về tham gia của
tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng của Hàn Quốc (private participation in
infrastructure - PPI), hoặc quy định về đầu tư theo hình thức xây dựng – kinh
doanh – chuyển giao của Việt Nam (BOT).
Ở bình diện chung nhất khái niệm hợp đồng PPP
là phạm trù động và được hiểu rất linh hoạt tùy theo cách tiếp cận hợp đồng và
những hoàn cảnh áp dụng cụ thể, một hướng xây dựng định nghĩa hợp đồng BOT trên
cơ sở bao quát các khía cạnh pháp lý, tài chính chủ yếu của hợp đồng như quá
trình đầu tư, chủ thể, tính cấp quyền, tính chất tài chính và mối quan hệ giữa
các bên tham gia hợp đồng.
Hợp đồng BOT trong nhiều năm gần đây đã được sử
dụng và đóng vai trò quan trọng trong phát triển cơ sở hạ tầng, các cơ sở sản
xuất công nghiệp, nông nghiệp ở các nước nhất là các nước đang phát triển. Bởi
vì, một mặt việc phát triển cơ sở hạ tầng được coi là điều kiện tiên quyết cho
phát triển kinh tế. Mặt khác, nguồn vốn của nhà nước để đầu tư vào những lĩnh vực
khác nhau của cơ sở hạ tầng còn rất hạn hẹp, chưa thể đáp ứng đủ và càng chưa
thể đáp ứng tốt nhu cầu.
Cơ sở hình thành các thỏa thuận PPP xuất phát
từ việc đầu tư các dự án/công trình kết cấu hạ tầng và/hoặc cung cấp dịch vụ
công nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội, như xây dựng và vận
hành hệ thống đường bộ, cấp điện, cấp nước … Những dự án, dịch vụ này đòi hỏi đầu
tư lớn nhưng khó sinh lời nên thường do nhà nước đứng ra thực hiện. Tuy nhiên,
có một thực tế là nhu cầu sử dụng các công trình, dịch vụ công, đặc biệt là trước
sức ép tăng trưởng kinh tế, luôn vượt quá khả năng thu xếp nguồn lực hữu hạn của
nhà nước mà ngay cả các quốc gia phát triển cũng phải đối mặt với tình huống
này. Chính vì vậy mà một trong những giải pháp để khắc phục tình trạng này là
thu hút các nguồn lực đầu tư vào các dự án, dịch vụ công thông qua đối tác nhà nước
– tư nhân (PPP).
Kinh
nghiệm Nhật Bản:
Hợp đồng Hợp tác công – tư trong phát triển
kinh tế được thể hiện khác nhau qua các giai đoạn phát triển. Từ sau 1950 khi
mà khái niệm về PPP còn chưa được hình thành, đã có sự hợp tác giữa khu vực
công và tư nhân trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp các dịch vụ
thiết yếu tại Nhật bản. Trong giai đoạn này,
Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các dịch vụ công, và là người
cung cấp các khoản tài chính chủ yếu cho khu vực tư nhân để thực hiện nhiệm vụ
này. Các công ty tư nhân, đặc biệt là trong 4 ngành điện lực, than, thép, và vận
tải biển, đã nhận được sự hỗ trợ đáng kể về tài chính từ Chính phủ, trong đó có
kênh đầu tư thông qua các tổ chức tài chính công mà điển hình là Ngân hàng Phát
triển Nhật Bản. Các tổ chức tài chính công này được thành lập nhằm tách việc thực
hiện các chính sách công của nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh của các ngân
hàng thương mại, và tiếp nhận các khoản vốn đầu tư từ chính phủ và các nguồn
tài trợ từ nước ngoài để đầu tư phát triển cho các công ty tư nhân trong việc
phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp các dịch vụ thiết yếu.
Đến thập niên 80, hợp tác giữa khu vực công và
tư đã phát triển theo hướng tư nhân hóa, theo đó xu hướng khu vực tư nhân thực
hiện cung cấp các dịch vụ công trước đây do nhà nước thực hiện nhằm giảm bớt
gánh nặng về tài chính của Chính phủ, đồng thời tạo điều kiện nâng cao chất lượng
các dịch vụ công. Vào những năm 1990, khái niệm quản lý theo mô hình khu vực tư
nhân được áp dụng vào quản lý khu vực công nhằm nâng cao trách nhiệm và tính hiệu
quả trong khu vực công tiến tới cải cách tổng thể khu vực công.
Từ năm 2000 đến nay, xu hướng liên danh công –
tư đã được phát triển và hoàn thiện. Theo đó, hợp tác công – tư được hiểu là một
phần của việc cải cách khu vực công nhằm khắc phục sự thiếu hụt nguồn tài
chính, thực hiện tối đa hoá lợi ích, và cung cấp tốt hơn các dịch vụ công với
chi phí thấp nhất. Nội dung chính của hợp tác công – tư là chia sẻ rủi ro và
trách nhiệm giữa Nhà nước và khu vực tư nhân, trong đó trách nhiệm gánh chịu
chính đối với những rủi ro thuộc về khu vực tư nhân. Nhà nước cũng có trách nhiệm
trong việc hỗ trợ khu vực tư nhân về tài chính để đảm bảo dự án khả thi và giảm
bớt khó khăn cho khu vực tư nhân. Cơ chế hợp tác đã thay đổi và chuyển dần từ
quản lý bằng Luật sang quản lý thông qua hợp đồng. Ngoài những cách thức hợp
tác truyền thống, trong vòng 10 năm qua đã có nhiều biện pháp, quy định và
chính sách để thúc đẩy các mô hình hợp tác công – tư khác nhau, đáng chú ý là Luật
về thúc đẩy các sáng kiến tài chính tư nhân 1999. Thực hiện Luật này, đã có khoảng
310 dự án PPP dưới hình thức sáng kiến tài chính tư nhân (PFI) tính đến 2008.
Thông thường PPP là một
cam kết hợp tác lâu dài (khoảng 10-50 năm) trong đó quyền lợi và trách nhiệm của
các bên được phân bổ tương ứng với phần tham gia của mỗi bên. Điểm nhấn trong
phương thức này là thu hút sự tham gia đầu tư của khu vực tư nhân trong các dự
án vốn được coi là ít có khả năng sinh lời, do vậy cần có sự tham gia, sự cam kết
của nhà nước để dự án trở thành khả thi (Viability Gap).
Bên cạnh đó, cơ chế PPP tạo
ra cơ chế năng động trong việc phân công hợp lý giữa các bên trong hợp đồng dự
án PPP (khu vực công và khu vực tư): bên nào có khả năng làm tốt hơn một công
việc cụ thể sẽ được phân giao thực hiện phần việc đó, đồng thời được hưởng các
quyền lợi từ phần việc đó. Nói cách khác, đó là sự tính toán kỹ lưỡng các yếu tố
tác động đến suốt vòng đời của dự án, sự phân bổ rủi ro giữa các bên một cách tối
ưu nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
PPP
khác với tư nhân hóa (trừ một số trường hợp đặc biệt). Tư nhân hóa đồng nghĩa với
việc nhà nước thoát vốn (divesture) hay từ bỏ quyền sở hữu, quản lý và chuyển
giao các quyền này cho nhà đầu tư tư nhân, đồng thời nhà nước quản lý thông qua
luật lệ, quy định chuyên ngành. Trong khi đó, với PPP nhà nước vẫn giữ nguyên
quyền quản lý, kiểm soát nhất định, đồng thời có thể đặt ra những chuẩn mực,
yêu cầu ràng buộc về cam kết chất lượng và dịch vụ đối với nhà cung cấp tư nhân.
Để có thể hiểu rõ bản chất hợp đồng PPP trước
hết phải đặt chúng trong mối quan hệ với khái niệm PPP nói chung. Theo đó, trên
bình diện tổng quát, PPP là một cơ chế pháp lý có thể thích ứng tùy theo tính
chất của dự án, loại hình quan hệ đối tác mà dự án đòi hỏi và cũng có thể thích
ứng với từng phương thức cung cấp tài chính. Như vậy, PPP có thể áp dụng với
nhiều trường hợp thực tiễn khác nhau. Khi sử dụng cho những
dự án về cơ sở hạ tầng - trường hợp thường được sử dụng nhất - PPP được hiểu là
phương thức huy động vốn của nhà đầu tư tư nhân để tài trợ, xây dựng và kinh
doanh công trình cơ sở hạ tầng thường do nhà nước thực hiện.
Thỏa thuận PPP cũng gắn liền với phát triển cơ
sở hạ tầng. Trong dự án PPP, nhà đầu tư tư nhân được đặc quyền xây dựng và kinh
doanh công trình cơ sở hạ tầng mà thường do chính phủ thực hiện. Nhà đầu tư tư
nhân này cũng có trách nhiệm tài trợ, thiết kế dự án và vào cuối giai đoạn đặc
quyền nhà đầu tư sẽ chuyển giao công trình cho nhà nước. Giai đoạn đặc quyền chủ
yếu xác định bởi độ dài thời gian cần thiết để doanh thu từ công trình trả hết
được nợ của doanh nghiệp và tạo ra được một tỷ suất sinh lời hợp lý cho việc đầu
tư và rủi ro mà doanh nghiệp đó phải chịu.
Để thực hiện dự án PPP, đòi hỏi có nhiều hợp đồng
được ký kết, song hợp đồng PPP là cơ sở pháp lý quan trọng nhất, là tiền đề cho
việc hình thành doanh nghiệp dự án và việc ký kết các hợp đồng liên quan để thực
hiện dự án. Hợp đồng PPP là “luật riêng” của mỗi dự án và là tập hợp các thỏa
thuận cho phép nhà đầu tư quyền được thực hiện dự án với những cam kết đối với
nhà nước trong việc phát triển công trình cơ sở hạ tầng.
Như vậy, ở bình diện chung nhất, PPP được hiểu
là một thỏa thuận pháp lý để thực hiện một phương thức đầu tư nhằm huy động nguồn
vốn từ khu vực tư nhân để tài trợ và kinh doanh dự án cơ sở hạ tầng vốn thuộc về
trách nhiệm của nhà nước, làm giảm gánh nặng bội chi trong ngân sách nhà nước đồng
thời tạo ra một cơ chế hữu hiệu trong việc đầu tư của tư nhân phục vụ lợi ích
công cộng. Tuy nhiên, thực tiễn pháp lý cho thấy có nhiều cách định nghĩa khác
nhau về hợp đồng PPP tùy theo việc nhìn nhận hợp đồng dưới những khía cạnh khác
nhau, cụ thể như sau:
- Dưới góc độ là một quá trình, hợp đồng PPP được hiểu là hình thức pháp lý để
nhà đầu tư xây dựng công trình cơ sở hạ tầng và vận hành (kinh doanh) công
trình đó trong một thời gian nhất định đủ để nhà đầu tư thu hồi vốn và lãi. Sau
thời gian đặc quyền đó, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình cho
chính phủ. Ở khía cạnh này, hợp đồng PPP luôn đi kèm với một dự án cụ thể. Khi
hợp đồng chấm dứt thì cũng có nghĩa dự án đó kết thúc. Chính vì yếu tố này mà
người ta thường gọi hợp đồng PPP là hợp đồng dự án. Ưu điểm lớn nhất của khái
niệm hợp đồng PPP là nêu bật những cam kết của nhà đầu tư trong việc phát triển
công trình cơ sở hạ tầng và việc chuyển giao công trình đó cho nhà nước sau khi
hết thời hạn kinh doanh công trình.
- Nhìn nhận khía cạnh chủ thể, hợp đồng PPP được
coi là thỏa thuận đầu tư giữa nhà đầu tư và chính phủ (thông qua cơ quan nhà nước
có thẩm quyền) trong việc đầu tư xây dựng công trình công cộng vốn dĩ thuộc
trách nhiệm của nhà nước. Như vậy, định nghĩa này nêu bật mối quan hệ giữa nhà
đầu tư và chính phủ, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố “công” và “tư”
trong hợp đồng.
- Hợp đồng PPP được định nghĩa là một hợp đồng
“nhượng quyền”, theo đó nhà nước có nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ lợi
ích công cộng, nhưng không đủ khả năng tài chính và kinh nghiệm để thực hiện
các công trình đó nên trao cho một hoặc một nhóm nhà đầu tư, thông qua quy
trình chọn thầu, đặc quyền xây dựng, vận hành, quản lý và khai thác thương mại
dự án đó trong một thời hạn nhất định đủ để thu hồi vốn và lợi nhuận hợp lý và
sau đó chuyển giao công trình không bồi hoàn cho nhà nước.
Mặc dù khái niệm “nhượng quyền” được thừa nhận
ở pháp luật của rất nhiều nước song hiện nay vẫn chưa có một cách hiểu thống nhất
về phạm vi của việc “nhượng quyền”. Một số đặc điểm chung của nhượng quyền bao
gồm: (1) việc nhượng quyền được cấp trên cơ sở thẩm quyền của chính phủ, (2) việc
nhượng quyền quy định các quyền của nhà đầu tư để thực hiện một dự án nhất định
(chẳng hạn quyền xây dựng, vận hành và kinh doanh một nhà máy điện), (3) việc
nhượng quyền trong một chừng mực nào đó có thể bao gồm quyền khai thác độc quyền
trong một số lĩnh vực, (4) việc nhượng quyền tạo nên một số bảo đảm pháp lý cho
nhà đầu tư trong việc sử dụng quyền được cấp.
- Dưới góc độ tài chính, Clifford Chance - một hãng luật
quốc tế có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực hợp đồng nhượng quyền đã định nghĩa
hợp đồng PPP là cách thức tài trợ dự án theo đó bên cho vay đối với dự án PPP
chỉ xem xét nguồn thu của dự án như là toàn bộ hoặc phần lớn việc bảo đảm cho
các khoản vay mà không dựa trên tài sản của bên đi vay như các hợp đồng tín dụng
truyền thống thông thường khác.
Định nghĩa trên dựa trên một đặc điểm tài
chính cơ bản của hợp đồng PPP là tính chất “tài trợ dự án”, điểm mấu chốt trong
hợp đồng PPP. Khái niệm “tài trợ dự án” vay mượn từ chữ “project finance”, một
trào lưu kinh tế mới xuất hiện trong kinh tế học và luật học. Tài trợ dự án được
hiểu là việc các nhà đầu tư tư nhân tìm kiếm các khoản vay từ bên cho vay trên
cơ sở quyền truy đòi hạn chế (bảo lãnh hạn chế - limited recourse), hay không
có quyền truy đòi (không bảo lãnh - none recourse). Quyền truy đòi hạn chế là
việc chỉ một phần khoản vay của bên cho vay được bảo đảm bởi một số hình thức cầm
cố, thế chấp hoặc bảo lãnh tài sản theo phương thức truyền thống, phần còn lại
không được bảo đảm mà được cho vay trên cơ sở bên cho vay xem xét và thẩm định
khả năng tạo doanh thu của dự án. Không có quyền truy đòi là toàn bộ khoản vay
của bên cho vay không được bảo đảm bằng bất kỳ hình thức nào như cầm cố, thế chấp
hoặc bảo lãnh tài sản. Trong phương thức này bên cho vay hoàn toàn dựa vào các
tính toán tài chính đối với nguồn thu dự tính từ việc kinh doanh dự án để hoàn
trả khoản vay.
Tính chất tài trợ dự án trong hợp đồng PPP xuất
phát từ đối tượng của khái niệm PPP gắn với xây dựng cơ sở hạ tầng. Vốn đầu tư
cho các dự án cơ sở hạ tầng thường rất lớn nên ít có nhà đầu tư có đủ tài sản bảo
đảm. Mặt khác, tài sản hình thành từ khoản vay là cơ sở hạ tầng, một loại tài sản
phục vụ lợi ích công cộng và sẽ được chuyển giao không bồi hoàn cho nhà nước.
Do vậy, việc tài trợ cho dự án PPP bởi các bên cho vay thường không phụ thuộc
vào giá trị tài sản dùng để bảo lãnh của nhà đầu tư hoặc giá trị tài sản hữu
hình của bản thân dự án. Trong tài trợ dự án, việc tài trợ và cung cấp nguồn
tài chính cho các khoản vay lớn thường phụ thuộc chủ yếu vào tính hiệu quả và kết
quả kinh doanh của chính dự án. Do vậy, các bên cho vay thường xem xét tới nguồn
thu của dự án để hoàn trả lại vốn vay thay vì các nguồn bảo đảm khác như tài sản
của dự án hay của các nhà tài trợ dự án. Đây là nét đặc trưng của việc đầu tư
theo phương thức hợp đồng PPP thể hiện tính phức tạp, tính xã hội và tính đặc
thù của hợp đồng PPP.
Có thể nói việc xây dựng một định nghĩa đúng
và đầy đủ về hợp đồng PPP là một công việc không hề đơn giản. Có nhiều cách tiếp
cận khác nhau về hợp đồng PPP trên các phương diện kinh tế, tài chính, pháp lý
và xã hội và mỗi cách tiếp cận lại đưa đến những hệ quả pháp lý khác nhau.
Ở Việt Nam định nghĩa hợp đồng PPP được quy định
tại Điều 2 Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công - tư ban hành
kèm theo Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng
Chính phủ.
Theo đó, Đầu tư theo hình thức đối tác công -
tư là việc nhà nước và Nhà đầu tư cùng phối hợp thực hiện Dự án phát triển kết
cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công trên cơ sở Hợp đồng dự án. Hợp đồng dự án là hợp đồng được ký kết giữa
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Nhà đầu tư, trong đó, nhà nước nhượng quyền
cho Nhà đầu tư được phép đầu tư, khai thác công trình, cung cấp dịch vụ công
trong một thời gian nhất định. Căn cứ tính chất của từng Dự án cụ thể, Hợp đồng
dự án quy định cam kết về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của Nhà đầu tư và
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mối quan hệ giữa nhà nước và Nhà đầu tư.
Với định nghĩa hợp đồng PPP nêu trên, Nhà nước Việt
Nam đã nhìn nhận hợp đồng PPP từ khía cạnh là một quá trình đầu tư của nhà đầu
tư (nhấn mạnh tiến trình từ việc nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đến việc
kinh doanh công trình đó và chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước Việt Nam)
và mối quan hệ chủ thể. Bên cạnh đó, các yếu tố nhượng quyền và tính tài trợ dự
án là những thành tố hết sức quan trọng của hợp đồng PPP đã được thừa nhận và
là những thành phần buộc phải có trong định nghĩa về hợp đồng PPP.