Tình hình đầu tư của Hàn
Quốc tại Việt Nam
Sau hơn 27 năm thực hiện các hoạt
động đầu tư vào Việt Nam, Hàn Quốc đã vượt qua Nhật Bản và trở thành nhà đầu tư
nước ngoài lớn nhất
về cả số lượng dự án và tổng vốn đầu tư
trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt
Nam kể từ tháng
10/2014. Đến nay, tổng vốn đầu tư đăng
ký của Hàn Quốc vào Việt Nam đạt 43,64 tỷ USD với 4.777 dự án đầu tư còn hiệu lực. Nếu tính cả các dự án của Samsung, Hyosung và một số
tập đoàn khác đầu tư qua nước thứ 3 (Singapore,
BVI, Thổ Nhĩ Kỳ ...), tổng vốn FDI lũy kế của Hàn Quốc tại Việt Nam có lên
tới khoảng 50 tỷ USD, chiếm khoảng 18% tổng vốn FDI vào Việt Nam và có chênh lệch
lên đến 11 tỷ USD so với Nhật Bản, đối tác FDI thứ 2 tại Việt Nam.
11/2015,
tổng vốn FDI của Hàn Quốc tại Việt Nam đạt trên 6,39 tỷ USD qua 904 dự án đầu
tư cấp mới và tăng vốn,nhà đầu tư Hàn Quốc đã có
mặt tại 45 địa phương của cả nước. Trong đó, các địa phương như Bắc Ninh, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hải Phòng ...
là những địa phương nhận được nhiều đầu tư từ
Hàn Quốc. Các hình thức đầu tư chủ yếu là 100% vốn nước ngoài.
Tính
trong 11/2015, tổng vốn FDI Hàn Quốc chiếm 31,6% tổng vốn FDI vào Việt Nam. Nếu
tính dự án của Tập đoàn Hyosung (660 triệu
USD, đầu tư qua pháp nhân Thổ Nhĩ Kỳ), FDI Hàn Quốc chiếm 34,9% tổng vốn
FDI tại Việt Nam, gấp 4,1 lần Nhật Bản; 6,2 lần Đài Loan và 6,8 lần Singapore (nhưng đối tác FDI truyền thống đứng thứ
2,3,4 của Việt Nam).
Theo kết quả khảo sát năm 2015 của Hiệp hội
Thương mại quốc tế Hàn Quốc (KITA) đối với các doanh nghiệp Hàn Quốc, 49% trong
tổng số 540 doanh nghiệp Hàn Quốc đã tham gia khảo sát về môi trường đầu tư tại
32 quốc gia có tốc độ tăng trưởng hàng năm hơn 3% trong 3 năm qua đều khẳng
định có kế hoạch phát triển kinh doanh tại thị trường Việt Nam trong năm 2015.
Doanh nghiệp FDI Hàn Quốc đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam
khi tạo ra việc làm cho khoảng 70 vạn lao động và đóng
góp khoảng 30% tổng giá trị xuất khẩu Việt Nam năm 2014.
Khoảng 95% các dự án đầu tư của Hàn Quốc được
thực hiện bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs),
tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong đó, các dự
án này chủ yếu là các dự án gia công trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ như may
mặc, sản xuất giày, dép ... Tuy nhiên, thời gian gần đây đã bắt đầu có sự
chuyển biến về chất khi xuất nhiều khối doanh nghiệp vệ tinh cho các TNCs Hàn
Quốc đầu tư tại Việt Nam vào lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ điện tử...Các
Tập đoàn lớn của Hàn Quốc tuy chỉ chiếm khoảng 5% số dự án nhưng đạt hơn 70%
tổng vốn đăng ký đầu tư tại Việt Nam và tập trung vào ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo; kinh doanh bất động sản; xây dựng ... đóng góp tích cực cho ổn định và phát triển
kinh tế như Samsung, Doosan, LG, Posco,CJ, Taekwang, Hyosung, Kumho ...
Quan hệ hợp tác thương mại Việt Nam - Hàn Quốc
Quan hệ kinh tế, thương mạigiữa
Việt Nam và Hàn Quốc đã tăng hơn 57 lần, từ 0,5 tỷ USD năm 1992,
khi lên 28,8 tỷ USD năm 2014. Năm 2014, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3
của Việt Nam (sau Trung Quốc và Hoa Kỳ)
và Việt Nam là thị trường xuất khẩu lớn thứ 6 của Hàn Quốc.
05 mặt
hàng có giá trị xuất khẩu lớn sang
Hàn Quốc trong năm 2014 gồm: Hàng dệt
may (đạt 2,14 tỷ USD); Hàng thủy sản (654 triệu USD);
Gỗ và sản phẩm gỗ (489 triệu USD); Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (395
triệu USD); Điện thoại các loại và linh kiện (334%).
05mặt hàng có giá trị nhập khẩu
lớn từ Hàn Quốc trong năm
2014 bao gồm: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (5,05 tỷ USD);
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác (3,1 tỷ USD); Vải các loại (1,8 tỷ USD);
Điện thoại các loại và linh kiện (1,7 tỷ USD);
Chất dẻo nguyên liệu (1,2 tỷ USD).Nhập
khẩu từ Hàn Quốc chủ yếu là nguyên, nhiên vật liệu phục vụ đầu tư, sản xuất,
trong đó có một phần đáng kể phục vụ các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của
Việt Nam.Tuy vậy, do khác biệt lớn về cơ cấu xuất nhập khẩu nên Việt Nam đang
nhập siêu lớn từ Hàn Quốc, nhất là thời gian gần đây.
Một trong những đặc điểm lớn
trong quan hệ thương mại song phương là cơ
cấu hàng hóa xuất nhập khẩu có tính bổ sung, cơ bản không cạnh tranh trực tiếp.
Triển vọng hợp tác song phương sau khi VKFTA có hiệu lực
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc
(VKFTA) được chính thức khởi động tại Hà Nội, Việt Nam vào ngày 06/8/2012. Cùng vớiHiệp định FTA ASEAN-Hàn Quốc (AKFTA) được ký kết vào tháng 6/2006
và có hiệu lực từ tháng 7/2007, Hiệp địnhVKFTA được ký kết ngày 5/5/2015sẽ là
văn bản pháp lý toàn diện nhất điều chỉnh quan hệ hợp tác kinh tế giữa
Việt Nam và Hàn Quốc.Hiệp định VKFTA dự kiến
sẽ mang lại nhiều triển vọng cho hai nước.
Ngoài ra, hai bên đặt mục
tiêu tăng kim ngạch thương mại song phương lên70 tỷ USD vào năm
2020 trên cơ sở hai Bên cùng có lợi.
Về
kinh tế, thương mại và đầu tư
Tương tự như tham gia WTO hay các FTA khác, việc ký
kết Hiệp định VKFTA sẽ giúp Việt
Nam hoàn thiện hơn nữa môi trường
kinh doanh, phân bổ và sử dụng nguồn lực xã hội một cách hiệu quả hơn, từ đó
thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng nâng cao giá trị gia tăng,
tiến lên bậc thang cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Đây là lợi ích quan trọng
trong dài hạn.
Thứ nhất, lợi ích quan trọng
hàng đầu của việc thiết lập FTA với Hàn Quốc là thúc đẩy đầu tư từ Hàn Quốc vào
Việt Nam, kèm theo nguồn công nghệ, trình độ quản lý và cơ hội tiếp cận các thị
trường thứ ba. Những năm qua, đặc biệt từ sau khi Hiệp định AKFTA có hiệu lực,
đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam tăng rõ rệt. Nguồn vốn đầu tư của Hàn Quốc có
cơ cấu tương đối tích cực, trong đó, tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực chế biến, chế
tạo chiếm tới hơn 60% tổng số vốn đầu tư.
Hàn Quốc thuộc nhóm những quốc
gia có trình độ công nghệ hàng đầu trên thế giới hiện nay. Do vậy, việc tăng cường
thu hút đầu tư của Hàn Quốc trong thời gian tới, với cơ cấu tích cực như trên,
cùng với các biện pháp khuyến khích chuyển giao công nghệ, sẽ giúp nâng cao
trình độ công nghệ và năng lực sản xuất của Việt Nam góp phần thực hiện mục
tiêu đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Cùng với các cam kết trong Chương
Đầu tư của Hiệp định VKFTA và việc Việt
Nam đã kết thúc đàm phán các Hiệp định
FTA thế hệ mới như TPP, EVFTA ...
và xu hướng chuyển hướng đầu tư sang các nước Đông Nam Á của các doanh nghiệp
Hàn Quốc đang đầu tư tại Trung Quốc
chắc chắn sẽ làm tăng lợi thế
cạnh tranh của Việt Nam trong thu hút đầu tư của Hàn Quốc.
Đây là cơ hội rất thuận lợi để Việt
Nam thu hút các dự án FDI có chất lượng từ Hàn Quốc, qua đó sẽ tham gia vững chắc hơn vào chuỗi sản xuất, cung
cấp ở phạm vi khu vực và toàn cầu, thu hút được các tập đoàn kinh tế lớn của
Hàn Quốc và kèm theo đó là các nhà cung cấp vệ tinh, phát triển công nghiệp hỗ
trợ, tạo việc làm, góp phần tích cực phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Đây
là cơ hội để dành được lợi ích mang tính chiến lược, dài hạn đối với nền kinh tế.
Thứ hai, về cơ hội tiếp cận thị
trường cho hàng hóa của mỗi Bên, phía Hàn Quốc dành cho Việt Nam ưu đãi cắt, giảm
thuế quan, tạo cơ hội xuất khẩu mới quan trọng đối với các nhóm hàng nông, thủy sản chủ lực như tôm, cua,
cá, hoa quả nhiệt đới, và hàng công nghiệp như dệt may, đồ gỗ, sản phẩm cơ khí...
Việt Nam là đối tác FTA đầu tiên được Hàn Quốc mở cửa thị trường đối với những
sản phẩm hết sức nhạy cảm trong nước như tỏi, gừng, mật ong, khoai lang...Theo đó,
tạo cơ hội cạnh tranh đáng kể cho hàng xuất khẩu của Việt Nam so với các đối thủ
cạnh tranh khác trong khu vực như Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và Thái Lan.
Trong khi Việt Nam dành ưu đãi cho Hàn Quốc với
các nhóm hàng công nghiệp như nguyên phụ liệu dệt, may, nguyên liệu nhựa, linh
kiện điện tử, xe tải và xe con từ 3.000 cc trở lên, phụ tùng ô-tô, điện gia dụng,
một số sản phẩm sắt thép, dây cáp điện... Phần lớn trong số này là các nguyên,
phụ liệu cần nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước, giảm phụ thuộc vào nguồn nhập
khẩu từ một vài nước.
Các lợi ích khác, Hiệp định VKFTA được dự đoán cũng sẽ đem lại những
hệ quả xã hội tích cực nhờ tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho lao động Việt Nam
tại các doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư tại Việt Nam cũng như cho lao động Việt
Nam sang làm việc tại Hàn Quốc, nâng cao thu nhập, đặc biệt của nhóm lao động
có trình độ thấp và trung bình, góp phần xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn.
Bên cạnh các mặt tích cực, thuận lợi, có thể lường trước một số thách thức không nhỏ đối
với Việt Nam khi thực
thi Hiệp định VKFTA.
Thứ
nhất, việc cắt giảm thuế
quan với Hàn Quốc sẽ tạo thêm sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong
nước, trong khi các doanh nghiệp hiện đang phải cạnh tranh với nhiều đối tác
như Trung Quốc, Nhật Bản,... Cam kết cắt giảm thuế quan phần nào làm giảm nguồn
thu từ thuế nhập khẩu cho ngân sách Nhà nước và do
khác biệt lớn về cơ cấu xuất nhập khẩu nên dự kiến nhập siêu từ Hàn Quốc tiếp tục gia tăng.
Thứ
hai, các cam kết về thủ tục,
quy tắc và thể chế tuy không tạo ra nghĩa vụ pháp lý mới nhưng đòi hỏi các cơ
quan quản lý Nhà nước phải không ngừng kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực cán
bộ mới có thể đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trong môi trường
kinh tế vận hành theo thông lệ quốc tế, và tăng cường cải cách, đơn giản hóa thủ
tục, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ
ba, các cơ quan Nhà nước,
các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và người dân phải nâng cao nhận thức về
tiến trình hội nhập nói chung và việc thực hiện Hiệp định VKFTA nói riêng mới
có thể khai thác hiệu quả các lợi ích cũng như hạn chế những tác động bất lợi của
Hiệp định.
Một số biện pháp tăng cường
thu hút FDI từ Hàn Quốc
Hàn Quốc là đối tác FDI lớn nhất, tiềm năng thu hút vốn đầu tư FDI từ Hàn
Quốc có nhiều yếu tố
thuận lợi trong thời gian tới. Những tồn tại, hạn chếliên quan đến thủ
tục hành chính, năng lực doanh nghiệp CNHT trong nước, chất lượng nguồn nhân lực,
cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh là những vấn đề lớn mang tính căn bản mà Việt Nam hiện đang và sẽ phải tiếp tục khắc
phục để nâng cao hiệu quả thu hút FDI Hàn Quốc nói riêng và các
nước nói chung.
Trong thời gian tới, một số lĩnh
vực đầu tư mà các nhà đầu tư Hàn Quốc sẽ tiếp tục đẩy mạnh đầu
tư vào Việt Nam là: lĩnh vực công nghiệp điện tử (đi đầu là Samsung, LG cùng các doanh nghiệp vệ tinh); phân phối,
bán buôn bán lẻ (Lotte, Shinseghe, E Mart);
tài chính - bảo hiểm (Shinha, Woori, KEB,
IBK, KB, Hanwha ...); kinh doanh bất động sản (Daewoo, GS,Posco ...); năng lượng (các nhà máy nhiệt điện và điện nguyên tử ở cấp Chính phủ như Kepco,
Doosan, Samsung C&T, Taekwang ...); dịch vụ chất lượng cao, du lịch (Lotte ...); lương thực và chế biến thực
phẩm (CJ); hàng may mặc (để xuất khẩu đón
đầu các hiệp định FTA thế hệ mới, Hyosung, Taekwang, Panko ...); dầu khí -
hóa chất (GS, SK, Samsung...); nông
nghiệp - trồng trọt (CJ...) ...
Một số cơ quan thuộc Chính phủ Hàn
Quốc có chức năng hỗ trợ đầu tư của
các doanh nghiệp ra nước ngoài mà các Bộ ngành địa phương có thể hợp tác
trong quá trình xây dựng kế hoạch XTĐT cũng như xúc tiến, tiếp cận trực tiếp
đến các doanh nghiệp Hàn Quốc gồm: Cơ quan Xúc tiến thương mại Hàn Quốc
(KOTRA); Phòng Thương mại và Công nghiệp Hàn Quốc (KCCI); Hiệp hội thương mại
Hàn Quốc (KITA); Liên đoàn kinh tế Hàn Quốc (đại diện các Tập đoàn lớn); Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc
(KBIZ) cùng các Tổ chức tài chính, ngân hàng; các công ty luật - tư vấn, Hiệp hội
doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (KOCHAM); Tổng Lãnh sự danh dự Việt Nam tại
Busan, KwangJu.