BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
CỤC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Thứ Tư, 25/12/2024
Tin dự án
Báo cáo tình hình hoạt động ngành công nghiệp và thương mại tháng 11 và 11 tháng năm 2020
Thứ Hai, 30/11/2020 11:46

Bộ Công thương đã có báo cáo tình hình hoạt động ngành công nghiệp và thương mại tháng 11 và 11 tháng năm 2020

Kinh tế thế giới tháng 11 và 11 tháng năm 2020 vẫn diễn biến phức tạp và còn nhiều yếu tố không thuận lợi. Nhiều nền kinh tế đang bước vào quá trình hồi phục trở lại sau khi trải qua điểm đáy vào tháng 4/2020, tuy nhiên, tốc độ hồi phục là khác nhau giữa các quốc gia và giữa các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Nhiều quốc gia vẫn phải đối mặt với diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 nhất là Mỹ và một số nước châu Âu đã ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến mọi mặt của nền kinh tế. Các tổ chức quốc tế đều đánh giá sự bất định và rủi ro vẫn ở mức độ rất cao, phụ thuộc nhiều vào diễn biến của dịch bệnh.

Trong nước, nhờ sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, người dân và doanh nghiệp trong thực hiện “mục tiêu kép” vừa phòng, chống đại dịch Covid-19 đồng thời tranh thủ cơ hội, phục hồi nhanh các hoạt động kinh tế, phấn đấu hoàn thành mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2020, tình hình kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn về tài chính và tiền tệ, tín dụng được bảo đảm, mặt bằng lãi suất giảm; tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định, thanh khoản thị trường được bảo đảm. Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam và EU (EVFTA) được thực thi đã tạo thêm động lực cho các lĩnh vực của nền kinh tế phục hồi và phát triển hoạt động trong trạng thái bình thường mới. Cùng với đó, ngày 15 tháng 11 năm 2020, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) mà Việt Nam là thành viên đã chính thức được ký kết, mang lại cơ hội lớn cho Việt Nam khi quy mô thị trường của các quốc gia tham gia hiệp định chiếm hơn 32% tổng GDP toàn cầu với hơn 2,2 tỷ dân và sẽ trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới. (RCEP có sự tham gia của 15 nước, gồm 10 quốc gia thành viên của ASEAN cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand).

Kết quả đạt được của ngành Công Thương trong 11 tháng năm 2020 cụ thể như sau:

I. HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP

1. Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp tháng 11/2020 tiếp tục khởi sắc, đặc biệt là ngành chế biến, chế tạo với mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. Cụ thể:

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 11/2020 ước tính tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 6,2%; ngành chế biến, chế tạo tăng 11,9%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4%; ngành cung cấp nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải tăng 5,3%.

Công nghiệp chế biến, chế tạo đạt mức tăng cao trong tháng 11 với đóng góp của các ngành như: Sản xuất than cốc và sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 125%; sản xuất kim loại tăng 39%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 18,9%; sản xuất thiết bị điện tăng 10,1%; sản xuất máy móc thiết bị chưa phân vào đâu tăng 9,4%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 8,8%.

Tính chung 11 tháng năm 2020, IIP ước tính tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,3%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 4,7% (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,6%); ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,2%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4%; riêng ngành khai khoáng giảm 7,1% .

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất 11 tháng tăng khá so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 29,2%; sản xuất kim loại tăng 13,6%; khai thác quặng kim loại tăng 13,4%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 11,5%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 10,2%; khai thác than cứng và than non tăng 7,8%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất, sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy cùng tăng 7,5%.

Một số ngành có chỉ số sản xuất 11 tháng giảm hoặc tăng thấp so với cùng kỳ năm trước: khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 11,8%; sản xuất mô tô, xe máy giảm 10,3%; sản xuất xe có động cơ giảm 8,9%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 6,8%; sản xuất đồ uống giảm 5,5%; sản xuất trang phục giảm 4,5%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 2,5%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 1,5%; sản xuất thiết bị điện tăng 2,3%. (Phụ lục 1).

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Ti vi tăng 23,6%; linh kiện điện thoại tăng 15,7%; thép cán tăng 13,4%; thép thanh, thép góc tăng 11,6%; xăng dầu các loại tăng 8,9%; phân u rê tăng 8,5%; than sạch tăng 7,8%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 6,3%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm công nghiệp trong 11 tháng giảm hoặc tăng thấp so với cùng kỳ năm trước: khí hóa lỏng LPG giảm 13,9%; bia giảm 13,8%; dầu thô khai thác giảm 13,5%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 10,4%; vải dệt từ sợi nhân tạo giảm 9,4%; xe máy giảm 8,2%; ô tô giảm 7,5%; quần áo mặc thường giảm 5,3%; giày, dép da giảm 2,5%. (Phụ lục 2).

Tình hình cụ thể ở các ngành như sau:

2. Tình hình sản xuất của một số ngành

2.1. Nhóm ngành khai khoáng

Chỉ số sản xuất của ngành khai khoáng trong tháng 11 giảm 0,1% so với tháng trước, giảm 6,2% so với cùng kỳ. Tính chung 11T/2020, chỉ số sản xuất của ngành giảm 7,1% so với cùng kỳ năm 2019.

a. Đối với khai thác dầu thô và khí

Công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí tiếp tục được triển khai theo kế hoạch đề ra. Hoạt động khai thác dầu, khai thác khí được tối ưu ở mức phù hợp với điều kiện kỹ thuật, đồng thời giảm tối đa thiệt hại về kinh tế khi giá dầu giảm sâu. Ước tính sản lượng khai thác dầu thô tháng 11 năm 2020 đạt 0,8 triệu tấn, giảm 16,3% so với cùng kỳ năm 2019. Tính chung 11 tháng năm 2020, sản lượng khai thác dầu thô ước đạt 10,4 triệu tấn, giảm 13,6% so với thực hiện 11 tháng năm 2020.

Sản lượng khai thác khí đốt thiên nhiên tháng 11 ước đạt 0,7 tỷ m3, giảm 16% so với cùng kỳ năm 2019. Tính chung 11 tháng, sản lượng khai thác khí đốt thiên nhiên ước đạt 8,4 tỷ m3, giảm 10,4% so với thực hiện 11 tháng năm 2019.

Sản lượng khai thác khí hóa lỏng (LPG) ước đạt 69,3 nghìn tấn, giảm 1,9% so với cùng kỳ, tính chung 11 tháng ước đạt 699,8 nghìn tấn, giảm 13,9% so với cùng kỳ.

b. Đối với sản xuất than

Sản lượng than sạch tháng 11 ước đạt 4,35 triệu tấn, tăng 5,3% so với tháng trước, tăng 15,4% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng 2020, sản lượng than sạch ước đạt 45,6 triệu tấn, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2019.

Sản lượng than khai thác không có nhiều biến động, tình hình cung cấp than cho các nhà máy nhiệt điện than đã cơ bản đạt khối lượng theo các hợp đồng đã ký, qua đó góp phần bảo đảm huy động ở mức cao các nhà máy nhiệt điện than nhằm cung cấp đủ điện cho hệ thống điện quốc gia, đảm bảo cung ứng đủ nhu cầu than cho nền kinh tế.

Năm 2020, để đảm bảo hoàn thành mục tiêu đề ra, ngành than đã quyết liệt thực hiện nhiều nhóm giải pháp lớn, trong đó, tập trung duy trì tốc độ tăng năng suất lao động và tiền lương cho người lao động; tăng cường tự động hóa, cơ giới hóa và tin học hóa các khâu từ điều hành, sản xuất, kinh doanh, sắp xếp mô hình tổ chức hợp lý tinh gọn, khoa học lực lượng lao động giữa các phòng, ban, phân xưởng, nhằm sử dụng thời gian lao động hiệu quả; tập trung hoàn thiện mô hình vừa sản xuất vừa kinh doanh than; kiểm soát chặt chẽ chi phí, nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả.

2.2. Nhóm ngành công nghiệp, chế biến chế tạo

Sản xuất nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo vẫn duy trì là nhóm chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn ngành công nghiệp, tiếp tục tăng với tốc độ cao nhất và là điểm sáng dẫn dắt tăng trưởng của toàn ngành. (Chỉ số sản xuất công nghiệp IIP tháng 11 tăng 11,9% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng, tăng 4,7% so với cùng kỳ).

a. Nhóm hàng dệt may, da giày:

 

Dịch Covid-19 vẫn còn diễn biến phức tạp tại thị trường Mỹ và một số nước châu Âu đã khiến cho tình hình sản xuất, xuất khẩu ngành dệt may, da giày gặp nhiều khó khăn do thiếu hụt đơn hàng xuất khẩu cuối năm.

-  Ngành dệt may: Tính chung 11 tháng năm 2020, vải dệt từ sợi tự nhiên ước đạt 612,6 triệu m2, tăng 6,3%; sản xuất vải dệt từ sợi tổng hợp và sợi nhân tạo ước đạt 855,7 triệu m2, giảm 9,4%; quần áo mặc thường ước đạt 4.043,3 triệu cái, giảm 5,3% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt và may mặc 11 tháng ước đạt 26,73 tỷ USD, giảm 10,5% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu vải mành, vải kỹ thuật khác ước đạt 400 triệu USD, giảm 26,8% so với cùng kỳ; xuất khẩu xơ, sợi dệt các loại ước đạt 3,29 tỷ USD, giảm 13,5% so với cùng kỳ.

Có thể nói, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may giảm sau 25 năm tăng trưởng liên tục, nhưng với việc khống chế dịch bệnh hiệu quả cùng với việc các doanh nghiệp trong ngành đã nhanh chóng tiến hành triển khai thúc đẩy chuyển đổi nhanh kết cấu mặt hàng truyền thống sang mặt hàng có khả năng thích ứng nhanh như chuyển từ mặt hàng veston cao cấp, sơ mi cao cấp... sang đồ bảo hộ lao động, may đồ dệt kim, sơ mi truyền thống để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh nên mức giảm của dệt may Việt Nam không lớn như các quốc gia khác. Đây là nỗ lực rất lớn của ngành dệt may, đặc biệt là trong bối cảnh tổng cầu dệt may thế giới giảm khoảng 20%, thậm chí có thể giảm tới 25% và các quốc gia cạnh tranh được hỗ trợ bởi đồng tiền của các quốc gia này giảm giá so với đồng USD. Dự báo tổng trị giá xuất khẩu cả năm của ngành dệt may sẽ đạt khoảng 33,5-34 tỷ USD, giảm khoảng 14-15% so năm 2019, cao hơn dự báo trước đó là chỉ đạt 30-31 tỷ USD.

Trong thời gian tới, ngành dệt may cần chú trọng hơn đến phát triển thị trường nội địa để bảo đảm bền vững hơn cho sản xuất kinh doanh dài hạn. Đồng thời, ngành cần đẩy mạnh xây dựng thương hiệu Việt Nam, liên kết chuỗi cung ứng, phát triển công nghiệp phụ trợ. Đổi mới, nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp trong tình hình mới, tăng cường chuyển đổi số trong quản lý, vận hành doanh nghiệp. Tiếp tục tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do, phát triển, mở rộng ngành sản xuất nguyên liệu, tăng tỷ lệ giá trị gia tăng, chủ động hơn trong chuỗi cung ứng.

- Ngành da giày

Tính chun‌g 11 tháng qua, sả‌n lượng giày dép da ước đạt 265,6 triệu đôi, giảm 2,5% so với cùng kỳ. Chỉ số sả‌n xuất da và các sả‌n phẩm có liên quan cũng giảm 2,5% so với cùng kỳ.

Cũng giống như ngành dệt  may, sản xuất của ngành da giày cũng bị ảnh hưởng lớn do tác động của dịch Covid-19. Từ nay đến cuối năm, dự báo đầu ra của ngành da giày sẽ tiếp tục gặp khó, bởi phụ thuộc nhiều vào khả năng khống chế dịch của Mỹ và Châu Âu.

Tuy nhiên, sau hơn 4 tháng thực thi Hiệp định EVFTA, giày dép là mặt hàng nằm trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có những chuyển biến tích cực về xuất khẩu. Hiệp định EVFTA sẽ là động lực lớn cho tăng trưởng của ngành giày dép, túi xách trong những tháng còn lại của năm 2020 và 2021. Tổng ki‌m ngạch xuất khẩu giày dép các loại tháng 11 ước đạt 1,4 tỷ USD, tăng 0,1% so với tháng trước. Tính chung 11 tháng ước đạt 14,93 tỷ USD, giảm 9,8% so với cùng kỳ.

b. Nhóm sản xuất đồ uống: Tháng 11 và 11 tháng năm 2020, sản xuất kinh doanh của ngành gặp nhiều khó khăn do tác động của dịch Covid-19. Chỉ số sản xuất của ngành 11 tháng giảm 5,5% so với cùng kỳ.

Trong đó, sản lượng sản xuất bia các loại tháng 11 ước đạt 402,2 triệu lít, tăng 3,1% so với tháng trước do các công ty tăng cường sản xuất phục vụ nhu cầu trước, trong và sau Tết; tuy nhiên vẫn giảm 11,4% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng, ước đạt 4,01 tỷ lít, giảm 13,8% so với cùng kỳ năm 2019.

c. Ngành sản xuất thuốc lá: tính chung 11 tháng đầu năm 2020, sản xuất của ngành duy trì được đà tăng trưởng tốt. Chỉ số sản xuất thuốc lá 11 tháng tăng 3,9% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2020, sản lượng thuốc lá bao các loại đạt khoảng 5.579,1 triệu bao, tăng 3,9% so với cùng kỳ 2019. Dự báo, trong tháng cuối năm sản xuất và tiêu thụ thuốc lá dự kiến tăng nhẹ do ảnh hưởng của thời tiết và chuẩn bị cho lễ, tết.

d. Ngành thép:

Mặc dù ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 tác động đến nhiều ngành sản xuất từ đầu năm đến nay, ngành sản xuất thép trong nước sau 11 tháng vẫn đang duy trì tốc độ tăng trưởng dương. Tháng 11 năm 2020, sản lượng thép thô ước đạt 4.098,4 nghìn tấn, tăng 17,4% so với cùng kỳ; thép cán ước đạt 1.048,2 nghìn tấn, tăng 45,8% so với cùng kỳ; thép thanh, thép góc ước đạt 1.140,9 nghìn tấn, tăng 30,9% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2020, sản lượng sản xuất sắt thép thô; thép cán; thép thanh, thép góc tăng lần lượt là 4,9%; 13,4% và 11,6% so với cùng kỳ năm trước.

Cùng với sản xuất kinh doanh được duy trì, tiêu thụ vật liệu xây dựng bắt đầu trở lại vào cuối quý 3 năm nay do nhiều công trình xây dựng đang được đẩy nhanh tiến độ hoàn thành đã tạo thêm những thuận lợi đáng kể cho các doanh nghiệp trong ngành đẩy mạnh tiêu thụ. Dự kiến, thị trường thép xây dựng sẽ khởi sắc hơn do trong ngắn hạn thị trường nội địa có nhu cầu tiêu thụ thép nhiều hơn trong tháng cuối năm 2020.

e. Sản xuất ô tô:

Thị trường ô tô đã bắt đầu vào mùa cao điểm cuối năm. Sau khi thực hiện các chiến lược giảm giá xe ở tất cả các phân khúc, từ bình dân cho đến xe sang nhằm chạy đua doanh số do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và tháng bảy âm lịch (tháng Ngâu), bắt đầu từ những ngày cuối tháng 10/2020, một số hãng xe đã rục rịch tăng giá trở lại chuẩn bị cho dịp mua sắm sôi động cuối năm.

Sản lượng sản xuất ô tô tháng 11 năm 2020 đạt 27,8 nghìn chiếc, tăng 7,8% so với tháng trước và tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2019. Tính chung 11 tháng năm 2020, sản lượng sản xuất ô tô ước đạt 214,8 nghìn chiếc, giảm 7,5% so với cùng kỳ.

2.3. Ngành sản xuất và phân phối điện

Chỉ số sản xuất ngành sản xuất và phân phối điện tháng 11 tăng 4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng, chỉ số sản xuất của ngành tăng 3,2%. Trong đó, sản xuất điện tháng 11 ước đạt 19.012,4 triệu kWh, tăng 4,3% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2020, tổng sản lượng điện sản xuất ước đạt 215.595,3 triệu kWh, tăng 3,3% so với cùng kỳ.

Điện thương phẩm tháng 11 ước đạt 18.270 triệu kWh, tăng 3,3% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2020, tổng lượng điện thương phẩm ước đạt 198.880,2 triệu kWh, tăng 3,1% so với cùng kỳ.

Tình hình sản xuất và cung ứng điện toàn hệ thống trong 11 tháng năm 2020 đã được thực hiện tốt, khai thác các nhà máy thủy điện đảm bảo yêu cầu cấp nước hạ du cho các địa phương và mức nước giới hạn các hồ thủy điện theo quy trình vận hành liên hồ chứa, huy động cao các nhà máy thủy điện miền Bắc có lưu lượng nước về tốt; khai thác tối đa các nguồn nhiệt điện than và khí theo khả năng cấp nhiên liệu. Nâng cao độ khả dụng các nhà máy điện; vận hành an toàn, tin cậy lưới điện truyền tải, đặc biệt là hệ thống 500kV Bắc - Nam. Bên cạnh đó, các đơn vị trong ngành điện tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ “kép”, vừa đảm bảo thực hiện phòng, chống dịch bệnh Covid-19, vừa đảm bảo cung cấp điện phục vụ phát triển kinh tế xã hội cũng như sinh hoạt của nhân dân; đặc biệt cung cấp điện an toàn, ổn định cho các bệnh viện dã chiến, cơ sở cách ly, khám chữa bệnh, điều trị bệnh nhân nhiễm và nghi nhiễm Covid-19.

Trong tháng cuối năm, ngành điện tiếp tục tập trung cung cấp điện an toàn, liên tục, ổn định, đặc biệt đảm bảo điện phục vụ sản xuất cuối năm và sản xuất hàng Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021. Bám sát tình hình phụ tải, diễn biến thời tiết - thuỷ văn và sẵn sàng ứng phó với các tình huống bất lợi, đảm bảo an toàn hồ đập và công trình thủy điện, đảm bảo an toàn vùng hạ du; Điều hành khai thác hợp lý cơ cấu các nguồn điện để cấp điện đầy đủ và an toàn đảm bảo chất lượng điện năng và kinh tế; Các nhà máy thủy điện khai thác theo thực tế nước về, đảm bảo yêu cầu về cấp nước hạ du và chuẩn bị kế hoạch tích nước cho năm sau.

II. HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI

1. Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 11 tháng năm 2020 ước tính đạt 489,7 tỷ USD, tăng 3,59% so với cùng kỳ năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 254,9 tỷ USD, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước; kim ngạch nhập khẩu ước tính đạt 234,78 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2019[1].

Trong bối cảnh tình hình dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, các nước nhập khẩu ngày càng siết chặt hàng rào phi thuế quan, bảo hộ trong nước gia tăng… thì việc Việt Nam tiếp tục duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu dương và xuất siêu kỷ lục cho thấy hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành và khai thác, tận dụng tốt các cơ hội mang lại nhằm thúc đẩy xuất khẩu.

Tình hình cụ thể như sau:

1.1. Xuất khẩu

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 11/2020 ước tính đạt 25,14 tỷ USD, giảm 7,8% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,05 tỷ USD, giảm 2,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt gần 18,1 tỷ USD, giảm 9,8%.

So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 11 tăng 10,3%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 8,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 10,8%.

Tính chung 11 tháng năm 2020, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 254,93 tỷ USD, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 8%). trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 73,05 tỷ USD, tăng 1,6%, chiếm 28,65% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 181,88 tỷ USD, tăng 7,1%, chiếm 71,35%.

Trong 11 tháng có 31 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 92% tổng kim ngạch xuất khẩu (trong đó có 6 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 64,3%), cụ thể: Điện thoại và linh kiện có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, đạt 46,9 tỷ USD, chiếm 18,4% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm 3,4% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 40,2 tỷ USD, tăng 24,3%; hàng dệt may đạt 26,7 tỷ USD, giảm 10,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 23,9 tỷ USD, tăng 44,5%; giày dép đạt 14,9 tỷ USD, giảm 9,8%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 10,9 tỷ USD, tăng 14,1%.

1.1.1. Về nhóm hàng xuất khẩu: Trong tháng 11/2020, ngoại trừ nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản có kim ngạch giảm gần 50% so với cùng kỳ năm 2019, các nhóm hàng khác đều đạt mức tăng trưởng khả quan. Cụ thể:

- Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản: Trong tháng 11/2020, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm thủy sản ước đạt 2,22 tỷ USD, tăng 3,2% so với cùng kỳ. Những mặt hàng ghi nhận sự tăng trưởng so với tháng 11/2019 là thủy sản tăng 4,7%, hạt điều tăng 6,6%, hạt tiêu tăng 33,5%, gạo tăng 23,8%, cao su tăng 15,8%... Ngược lại, kim ngạch xuất khẩu rau quả vẫn còn nhiều khó khăn và giảm 6,7% so với cùng kỳ năm 2019; cà phê giảm 30%; chè giảm 9,4%; sắn và các sản phẩm từ sắn giảm 0,4%.

Đáng chú ý, nhu cầu thế giới phục hồi cũng kéo theo giá xuất khẩu hầu hết các mặt hàng nông, thủy sản đều tăng so với tháng trước cũng như cùng kỳ năm 2019. Theo đó, giá xuất khẩu bình quân cà phê đạt 1.963 USD/tấn trong tháng 11/2020, tăng 5,7% so với tháng 10/2020 và tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2019; giá xuất khẩu hạt tiêu tăng 3,6% so với tháng 10/2020 và tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2019; nhân điều đạt 6.207 USD/tấn, tăng 3,5% so với tháng trước nhưng giảm 12,7% so với cùng kỳ năm 2019; giá xuất khẩu cao su tăng 8,8% so với tháng 10/2020 và tăng 15% so với cùng kỳ năm 2019. Riêng với mặt hàng gạo, giá xuất khẩu gạo trong tháng 11/2020 đạt bình quân 534 USD/tấn, tăng 1% so với tháng 10/2020 và tăng 16% so với cùng kỳ năm 2019. Trong 11 tháng năm 2020, gạo cũng là mặt hàng có giá xuất khẩu tăng mạnh nhất, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2019, đạt bình quân 496 USD/tấn. Trên thị trường thế giới, giá chào bán gạo trắng 5% tấm của Việt Nam tính đến ngày 25/11/2020 dao động ở mức 495 – 500 USD/tấn, cao hơn so với các nhà cung cấp khác trong khu vực như Thái Lan (475 – 485 USD/tấn) hay Ấn Độ (366 – 370 USD/tấn).

Tính chung 11 tháng năm 2020, kim ngạch nhóm hàng này ước đạt 22,67 tỷ USD, giảm 1,8% so với cùng kỳ năm 2019. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu thủy sản giảm 0,9%; rau quả giảm 11,7%; hạt điều giảm 1,7% (lượng tăng 13,2%); cà phê giảm 2,9% (lượng giảm 3,9%); hạt tiêu giảm 11,5% (lượng giảm 1,8%); cao su giảm 1,4% (lượng tăng 0,4%); chè các loại giảm 5,3% (lượng tăng 1,2%). Riêng mặt hàng gạo và sắn và các sản phẩm từ sắn có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ, lần lượt tăng 10,4% và 2,4%.

- Nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản: kim ngạch xuất khẩu tháng 11 giảm khá mạnh so với cùng kỳ năm 2019, ước đạt 157 triệu USD, giảm 49,8% so với cùng kỳ. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu than đá giảm 60,6%; xăng dầu giảm 68,7%; dầu thô giảm 30,4%; quặng và khoáng sản khác giảm 26,9%.

Tính chung 11 tháng năm 2020, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản ước đạt 2,6 tỷ USD, giảm 35,9% so với cùng kỳ năm trước.

- Nhóm hàng công nghiệp chế biến: tiếp tục là nhóm hàng đóng vai trò đóng góp chính vào tốc độ tăng trưởng trong tháng 11/2020 với kim ngạch đạt 20,97 tỷ USD, tăng 8,2% so với tháng 11/2019. Trong đó, những mặt hàng ghi nhận đà tăng trưởng cao vẫn là: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 16,3%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 55%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 14,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 22,7%; sắt thép các loại tăng 39,7%; điện thoại các loại và linh kiện cũng tăng nhẹ trở lại với mức tăng 4,6%... Ngược lại, nhóm hàng may mặc tiếp tục giảm so với cùng kỳ năm 2019, với sự sụt giảm 22,5% của hàng dệt và may mặc; giảm 17,7% đối với giày dép các loại; giảm 30,4% đối với túi xách, ví, vali, mũ, ô dù.

Trong 11 tháng năm 2020, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến tăng trưởng khá cao so với cùng kỳ năm 2019 và đóng góp chủ yếu vào tốc độ tăng trưởng chung với kim ngạch ước đạt 216,35 tỷ USD, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước. Một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng tốt như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 24,3%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 44,5%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 14,1%...

Trái lại, kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng khác sụt giảm do tác động của dịch Covid-19 như: Điện thoại các loại và linh kiện giảm 3,4%; hàng dệt và may mặc giảm 10,5%; giày dép các loại giảm 9,8%; túi xách, ví, vali, mũ, ô dù giảm 17,9%...

1.1.2. Về thị trường xuất khẩu:

Trong 11 tháng đầu năm, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 69,9 tỷ USD, tăng 25,7% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là Trung Quốc đạt 43,1 tỷ USD, tăng 16%. Thị trường EU đạt 32,2 tỷ USD, giảm 2,4%. Thị trường ASEAN đạt 20,9 tỷ USD, giảm 10,6%. Hàn Quốc đạt 17,7 tỷ USD, giảm 2,7%. Nhật Bản đạt 17,3 tỷ USD, giảm 6,5%.

Hàng hóa Việt Nam đã tiếp tục khai thác các thị trường truyền thống và mở rộng tìm kiếm, phát triển thêm nhiều thị trường mới từ việc tận dụng các FTA đã có hiệu lực và đang tiếp tục đàm phán, ký kết. Nhất là khi cộng đồng doanh nghiệp tận dụng tốt hơn cơ hội từ các FTA sẽ là yếu tố tích cực thúc đẩy quá trình xuất khẩu hàng hóa. Đặc biệt, cùng với việc không ngừng cải cách thủ tục hành chính, tạo hành lang thông thoáng cho doanh nghiệp hoạt động đã và đang là động lực rất lớn trong việc phát triển các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước cũng như thu hút mở rộng đầu tư và xuất khẩu sản phẩm của các doanh nghiệp.

Ngày 15 tháng 11 năm 2020, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) mà Việt Nam là thành viên đã chính thức được ký kết, mang lại cơ hội lớn cho Việt Nam khi quy mô thị trường của các quốc gia tham gia hiệp định chiếm hơn 32% tổng GDP toàn cầu với hơn 2,2 tỷ dân và sẽ trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới.

1.2. Nhập khẩu

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong tháng 11/2020 ước tính đạt 24,48 tỷ USD, tăng 0,7% so với tháng 10/2020, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 8,6 tỷ USD, tăng 1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 15,88 tỷ USD, tăng 0,5%. So với cùng kỳ năm 2019, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 11 tăng 14,7%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 23%.

Tính chung 11 tháng năm 2020, tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam ước đạt 234,78 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 85,43 tỷ USD, giảm 9,6 %; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 149,35 tỷ USD, tăng 9,4%. 

Trong 11 tháng năm 2020 có 34 mặt hàng đạt kim ngạch nhập khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 89,4% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 4 mặt hàng đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD, chiếm 49,3%), trong đó điện tử, máy tính và linh kiện đạt 57,4 tỷ USD (chiếm 24,5% tổng kim ngạch nhập khẩu), tăng 22% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 33,1 tỷ USD, bằng cùng kỳ năm trước; điện thoại và linh kiện đạt 14,6 tỷ USD, tăng 9,3%; vải đạt 10,6 tỷ USD, giảm 12,3%; chất dẻo đạt 7,5 tỷ USD, giảm 9,4%; sắt thép đạt 7,3 tỷ USD, giảm 16,7%; sản phẩm chất dẻo đạt 6,5 tỷ USD, tăng 9,7%; ô tô đạt 5,5 tỷ USD, giảm 18,5%; kim loại thường đạt 5,4 tỷ USD, giảm 7,5%; sản phẩm hóa chất đạt 5,1 tỷ USD, tăng 3,1%.

- Kim ngạch nhập khẩu theo nhóm hàng:

+ Nhóm hàng cần nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu 11 tháng năm 2020 ước đạt 207,39 tỷ USD, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm 2019, chiếm 88,44% tổng kim ngạch nhập khẩu. Trong đó, kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng so với cùng kỳ như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 22%; điện thoại các loại cũng tăng 9,3%; sản phẩm từ chất dẻo tăng 9,7%; sản phẩm hóa chất tăng 3,1%.

Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu nhiều mặt hàng nguyên liệu phục vụ sản xuất khác giảm như: Vải các loại giảm 12,3%; sắt thép các loại giảm 16,7%; nguyên, phụ liệu dệt may giảm 10,9%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 1,7%...

+ Nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng chính trong nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu tháng 11 tăng 6,9% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng, kim ngạch nhóm hàng này giảm khá mạnh so với 11 tháng năm 2019, ước đạt 14,62 tỷ USD, giảm 11,7% so với cùng kỳ. Trong đó: Rau quả giảm 28,2%; bánh kẹo và sản phẩm từ ngũ cốc giảm 9,8%; ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ giảm 32,9%; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện giảm 8,7%.

- Về thị trường nhập khẩu: Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước tính đạt 73,9 tỷ USD, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc đạt 42 tỷ USD, giảm 2,9%; thị trường ASEAN đạt 27,3 tỷ USD, giảm 6,9%; Nhật Bản đạt 18,6 tỷ USD, tăng 4,8%; thị trường EU đạt 13,2 tỷ USD, tăng 4,3%; Hoa Kỳ đạt 12,6 tỷ USD, giảm 3,6%.

1.3. Cán cân thương mại

Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng 10/2020 xuất siêu 2,9 tỷ USD[2]; 10 tháng xuất siêu 19,5 tỷ USD; tháng 11 ước tính xuất siêu 660 triệu USD. Tính chung 11 tháng năm 2020, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu kỷ lục 20,16 tỷ USD[3] (cùng kỳ năm trước xuất siêu 10,8 tỷ USD).

2. Thương mại nội địa

Thị trường hàng hóa thế giới trong tháng 11 tiếp tục có nhiều biến động và chịu ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế, chính trị. Dịch bệnh Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp tại nhiều quốc gia (các ca nhiễm tăng mạnh tại Hoa Kỳ, các nước Châu Âu…) có tác động tiêu cực đến cung cầu, giá cả của nhiều hàng hóa trên thế giới.

Trong nước, trong đầu tháng 11, mưa lũ tiếp tục ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống của người dân tại một số tỉnh miền Trung, tuy nhiên, do được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các bộ, ngành, địa phương, sự hỗ trợ của người dân, doanh nghiệp trên cả nước nên nguồn cung các mặt hàng thiết yếu vẫn được bảo đảm. Hiện đang vào dịp cuối năm, thị trường hàng hóa bắt đầu sôi động, nhiều chương trình kết nối cung cầu, xúc tiến thương mại do Bộ Công Thương chủ trì/phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức có liên quan được triển khai trên cả nước, kích thích nhu cầu mua sắm của người dân.

Trong tháng 11, hưởng ứng Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và Chương trình kích cầu tiêu dùng nội địa, Bộ Công Thương đã tổ chức Hội nghị hỗ trợ kết nối tiêu thụ các sản phẩm thực phẩm an toàn ngành Công Thương (ngày 6/11/2020) và Chương trình hỗ trợ kết nối tiêu thụ các sản phẩm thực phẩm an toàn ngành Công Thương năm 2020 trong các ngày 7-8/11/2020 tại Hà Nội; phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội tổ chức Hội nghị giao thương kết nối cung cầu hàng hóa giữa thành phố Hà Nội và các tỉnh, thành phố” ngày 25 tháng 11 năm 2020 và chuỗi sự kiện “Hội chợ Đặc sản Vùng miền Việt Nam” năm 2020 thu hút sự tham gia của hơn 400 doanh nghiệp sản xuất của gần 60 tỉnh, thành phố trong cả nước và hơn 100 đơn vị phân phối trong và ngoài nước; phối hợp với UBND tỉnh Vĩnh Long, UBND tỉnh Yên Bái tổ chức các Hội nghị kết nối cung cầu hàng Việt Nam với quy mô cấp vùng, miền…   

Thị trường các mặt hàng thiết yếu không có biến động lớn, một số mặt hàng như lương thực, đường, vật liệu xây dựng tăng nhẹ do nhu cầu tăng; một số mặt hàng như thực phẩm (thịt lợn), phân bón giá giảm nhẹ do nguồn cung tăng; các mặt hàng nhóm năng lượng giá có xu hướng tăng nhẹ do ảnh hưởng của giá thế giới trước các tác động của các yếu tố chính trị, xã hội.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11 ước tính đạt 464,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 365,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3% và tăng 13,2%, chủ yếu do các cơ sở kinh doanh trong tháng đưa ra nhiều chương trình khuyến mại đã thu hút người tiêu dùng tới mua sắm; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 47,4 nghìn tỷ đồng, tăng 3,3% và giảm 6,5%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 1,3 nghìn tỷ đồng, tăng 3,5% và giảm 68,3%; doanh thu dịch vụ khác đạt 50 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7% và giảm 0,7%.

Tính chung 11 tháng năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 4.590,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 2% (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,1%).

Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 11 tháng đạt 3.630,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 79,1% tổng mức và tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 11 tháng năm nay ước tính đạt 461,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 10% tổng mức và giảm 13,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,6%). Doanh thu du lịch lữ hành 11 tháng ước tính đạt 16,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,4% tổng mức và giảm 58,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,9%). Doanh thu dịch vụ khác 11 tháng ước tính đạt 482,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,5% tổng mức và giảm 4,8% so với cùng kỳ năm 2019. (Phụ lục 7).

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI):

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, CPI tháng 11 giảm 0,01% so với tháng 10, do các nhóm giảm giá như giao thông (do giá xăng dầu giảm), bưu chính viễn thông (giá cước viễn thông khuyến mại), văn hóa giải trí du lịch (do nhu cầu du lịch giảm và có nhiều chương trình khuyến mại) với mức giảm của các nhóm từ 0,06-0,47%. Các nhóm tăng gồm: nhóm tăng cao nhất là nhóm may mặc, mũ nón, giày dép (tăng 0,14%) do thời tiết chuyển mùa, nhu cầu mua sắm giầy dép quần áo của người dân tăng; nhóm nhà ở vật liệu xây dựng (tăng 0,07%) do tăng giá chủ yếu ở mặt hàng gas và thép tăng theo giá thế giới; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (tăng 0,05%) do mưa bão tại các tỉnh miền Trung khiến giá thực phẩm tăng cục bộ; các nhóm hàng hóa khác tăng từ 0,01-0,12%.

CPI bình quân 11 tháng đầu năm tăng 3,51% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó các nhóm có mức tăng cao và đóng góp chính vào CPI chung là hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 10,68% (chủ yếu do giá thịt lợn tăng cao trong thời gian dài vừa qua); nhóm thuốc và dịch vụ y tế, giáo dục (tăng lần lượt 2,3% và 4,11%) do các địa phương điều chỉnh tăng các phí này theo lộ trình; nhóm hàng hóa dịch vụ khác tăng 2,96% (do một số loại hàng hóa dịch vụ tăng trong các giai đoạn dịch bệnh Covid-19 bùng phát); các nhóm giảm và làm hạn chế mức tăng chung gồm giao thông giảm 11,16% (do giá xăng dầu giảm mạnh và ở mức thấp so với mặt bằng giá năm trước); văn hóa giải trí du lịch giảm 1,12% (do nhu cầu du lịch dịch vụ giảm trong các giai đoạn dịch bệnh); nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,58% (do các chương trình khuyến mại giảm giá cước). Như vậy, CPI bình quân đang tiếp tục trong xu hướng giảm và nằm trong giới hạn kiểm soát lạm phát do Quốc hội giao.

Công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường:

Thời gian qua, công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường trong nước đã được thực hiện quyết liệt nhằm ngăn chặn tình trạng hàng lậu, hàng giả, hàng gian lận thương mại, kém chất lượng, không đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, góp phần bình ổn thị trường và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp làm ăn chân chính và người tiêu dùng. Lũy kế từ ngày 01/11/2020 đến ngày 25/11/2020, lực lượng Quản lý thị trường phát hiện, xử lý gần 8.976 vụ vi phạm; thu nộp ngân sách nhà nước gần 13 tỷ đồng. Lũy kế từ ngày 01/01/2020 đến ngày 25/11/2020, lực lượng Quản lý thị trường phát hiện, xử lý gần 83.051 vụ vi phạm; thu nộp ngân sách nhà nước hơn 241 tỷ đồng.

Dự báo trong thời gian tới:

Giai đoạn cuối năm, Tết Dương lịch, thị trường hàng hóa sẽ sôi động hơn, niềm tin của người dân vào sự phục hồi kinh tế tăng; nhu cầu hàng hóa chuẩn bị Tết, nhu cầu dịch vụ ăn uống phục vụ liên hoan, cưới hỏi tăng; các yếu tố tác động về giá cả từ thị trường hàng hóa thế giới đang trong xu thế phục hồi. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo sát sao của các bộ, ngành, địa phương, sự chuẩn bị về nguồn hàng sớm và chủ động của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh nên cung cầu, giá cả hàng hóa sẽ không có biến động bất thường, thị trường tương đối bình ổn.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI

Trong tháng cuối năm 2020, Bộ Công Thương tiếp tục yêu cầu Thủ trưởng các Đơn vị thuộc Bộ quán triệt, tập trung chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trên các lĩnh vực theo các nghị quyết, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Tập trung thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất kinh doanh, tiêu dùng trong nước, xuất khẩu và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công để góp phần sớm phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới, trong đó tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau:

1. Tập trung vào một số giải pháp lớn và mang tính nền tảng như sau:

- Tập trung xây dựng Nghị quyết chỉ đạo điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021, bám sát nội dung Kết luận của Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội; huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, phấn đấu hoàn thành đạt mức cao nhất các chỉ tiêu kế hoạch năm 2020, tạo tiền đề và dư địa phát triển cho năm 2021.

- Tiếp tục theo dõi, bám sát thị trường, nghiên cứu, phân tích và dự báo tình hình thế giới, trong nước, nhằm chuẩn bị xây dựng kịch bản tăng trưởng của ngành năm 2021 và đề ra giải pháp, đối sách phù hợp ngay từ đầu năm.

- Tháo gỡ vướng mắc, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và bảo vệ lợi ích của các ngành sản xuất trong nước (đặc biệt là các ngành như: thép, ô tô, phân bón, hóa chất...) để tiếp tục gia tăng sản lượng, giải phóng lực lượng sản xuất gắn liền với đổi mới cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh.

- Lãnh đạo các đơn vị tích cực đi sâu, đi sát, bám sát yêu cầu thực tiễn để tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh; theo dõi sát, nắm bắt kịp thời tình hình thực tiễn, xác định rõ những vướng mắc, khó khăn cụ thể đối với từng ngành, lĩnh vực, từng doanh nghiệp và trên từng địa bàn để có biện pháp, đối sách cụ thể sớm khắc phục, tháo gỡ khó khăn, đồng thời tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.

Chú trọng đẩy mạnh triển khai các dự án đầu tư lớn của ngành, đặc biệt là các dự án trọng điểm, các dự án năng lượng, để vừa bảo đảm an ninh năng lượng, vừa góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả nước. Tập trung rà soát kỹ và có giải pháp phù hợp, thúc đẩy mạnh mẽ, tạo thuận lợi cho tất cả các khâu trong quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh, từ nguyên vật liệu, các yếu tố đầu vào, đến sản xuất, chế biến và trung gian phân phối, thị trường, tiêu thụ sản phẩm…

- Thúc đẩy phát triển thị trường ngoài nước, tận dụng tốt cơ hội do các Hiệp định FTAs mang lại; thực hiện hiệu quả phòng vệ thương mại và ứng phó một cách chủ động, có hiệu quả với các xu thế bảo hộ và hàng rào kỹ thuật ở các thị trường trên thế giới.

- Chú trọng cải cách thể chế, hoàn thiện hành lang pháp lý và cải cách bộ máy tổ chức quản lý nhà nước, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để huy động nguồn lực cho sản xuất.

2. Giải pháp về phát triển thương mại

2.1. Về xuất nhập khẩu

- Tiếp tục theo dõi sát sao diễn biến của đại dịch Covid-19 trên thế giới để có các biện pháp ứng phó kịp thời. Ưu tiên triển khai các hoạt động xúc tiến xuất khẩu và các thị trường xuất khẩu sớm khôi phục sau đại địch; tập trung theo dõi sát tình hình từng thị trường để rà soát, xác định các chủng loại hàng hóa mà các nước đang có nhu cầu nhập khẩu để khai thác, thúc đẩy xuất khẩu.

- Khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do, mở rộng, thúc đẩy và đa dạng hoá thị trường xuất, nhập khẩu. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về các FTA để hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khai thác và tận dụng các ưu đãi, đáp ứng các tiêu chuẩn, quy định trong các FTA. Đẩy mạnh công tác xây dựng thể chế chính sách, cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính; đẩy mạnh triển khai Cơ chế Một cửa Quốc gia nhằm tạo môi trường thuận lợi thông thoáng cho hoạt động xuất nhập khẩu.

- Tăng cường công tác xác minh xuất xứ hàng hóa; đẩy mạnh phòng chống, phát hiện, xử lý các hành vi lẩn tránh bất hợp pháp, gian lận xuất xứ nhằm phát triển sản xuất, đầu tư, xuất nhập khẩu bền vững, bảo vệ lợi ích của người dân, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chân chính.

- Tiếp tục theo dõi, kịp thời điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ sản xuất trong nước theo đúng cam kết quốc tế. Tăng cường quản lý Nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ; nâng cao năng lực phòng vệ thương mại trong bối cảnh hội nhập sâu rộng đặc biệt là tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.

- Triển khai hiệu quả Kế hoạch hoạt động Xúc tiến thương mại giai đoạn 2020-2025 góp phần phát triển xuất khẩu bền vững trong bối cảnh thực thi EVFTA, CPTPP và các hiệp định thương mại tự do được ban hành tại Quyết định số 2124/QĐ-BCT ngày 10 tháng 8 năm 2020. Xây dựng và tiếp tục triển khai hiệu quả các chương trình cụ thể phát triển thương hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao.

2.2. Về phát triển thị trường trong nước

- Bảo đảm cân đối cung cầu, góp phần bình ổn thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Tiếp tục triển khai các hoạt động kết nối cung cầu, xúc tiến thương mại; Phối hợp với các địa phương triển khai các chương trình kích cầu nội địa nhằm kích thích tiêu dùng và hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ hàng hóa sản xuất trong nước.

- Theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả các mặt hàng thiết yếu, nhất là các mặt hàng thực phẩm và thịt lợn để phục vụ Tết; triển khai hiệu quả Chương trình Bình ổn thị trường, đôn đốc các doanh nghiệp tiếp tục chủ động nguồn hàng, đẩy mạnh cung ứng hàng hóa bảo đảm về số lượng, chất lượng cho thị trường với mức giá ổn định.

- Lực lượng Quản lý thị trường tiếp tục đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường trong nước trong dịp cuối năm 2020 và dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021 nhằm ngăn chặn hiệu quả tình trạng hàng lậu, hàng không đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, hàng giả, hàng gian lận thương mại, kém chất lượng; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại tại các địa phương.

- Sở Công Thương các tỉnh, thành phố thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 15/CT-BCT ngày 30 tháng 10 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Công Thương về việc thực hiện các giải pháp bảo đảm cân đối cung cầu, bình ổn thị trường cuối năm 2020 và dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021.

2.3. Lãnh đạo các đơn vị tiếp tục rà soát, thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo mọi thuận lợi để thu hút hiệu quả các nguồn vốn đầu tư xã hội, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân và khu vực FDI phục vụ cho mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước nói chung và của ngành Công Thương nói riêng.

Tập trung tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách, quy định pháp luật để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp; tạo điều kiện cho doanh nghiệp có sự chuẩn bị tốt về vốn, công nghệ, thị trường và khả năng kết nối với doanh nghiệp FDI để thúc đẩy sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp./.

Nguồn: bocongthuong



[1] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 11 tháng năm 2019 đạt 472,7 tỷ USD, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 241,7 tỷ USD, tăng 8%; nhập khẩu đạt 231 tỷ USD, tăng 6,8%.

[2] Ước tính xuất siêu 2,2 tỷ USD.

[3] Trong đó, xuất siêu sang EU đạt 19 tỷ USD, giảm 6,6% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 30,8 tỷ USD, giảm 1,7%; nhập siêu từ Hàn Quốc 24,3 tỷ USD, giảm 3,1%; nhập siêu từ ASEAN 6,4 tỷ USD, tăng 7,5%.

Số lượt đọc: 757
Thông báo