BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
CỤC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Thứ Hai, 25/11/2024
Tin dự án
Tăng cường giám sát thực hiện các FTA có hiệu lực
Thứ Tư, 22/07/2020 01:55

Ngày 22/7, Đoàn giám sát “Việc thực hiện các FTA mà Việt Nam là thành viên” của Ủy ban thường vụ Quốc hội đã làm việc với Bộ Công Thương, Bộ KH&ĐT.

Ảnh: Báo Công Thương

Cho đến nay, các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam là thành viên đã thực hiện tốt các mục tiêu chính, có sức lan tỏa sâu rộng, tạo lợi ích cho nền kinh tế. Đó là kim ngạch xuất nhập khẩu tăng; thu hút nhiều các nhà đầu tư nước ngoài (FDI) không chỉ các FDI bình thường mà cả đầu tư công nghệ và theo chuỗi; nâng cao sức cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước và góp phần cải thiện chính sách, pháp luật.

Nhiều tác động tích cực

Kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007 tới nay, Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 16 FTA, trong số 13 FTA đã ký (12 FTA đã có hiệu lực, 1 FTA đã ký và phê chuẩn, nhưng chưa có hiệu lực) và 3 FTA đang đàm phán (Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), FTA giữa Việt Nam và Khối Thương mại tự do châu Âu (EFTA), FTA giữa Việt Nam và Israel. Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh đánh giá, các FTA này đã và đang mở rộng cánh cửa thị trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, là cơ hội để Việt Nam kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu.

Trong số 13 FTA đã ký, có 2 Hiệp định được Quốc hội phê chuẩn là CPTPP và EVFTA, 11 FTA khác thuộc thẩm quyền Chủ tịch nước, Chính phủ. Đối với Hiệp định CPTPP, sau hơn 1 năm đi vào thực thi, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang 6 nước đã phê chuẩn Hiệp định CPTPP năm 2019 đạt gần 35,4 tỷ USD, tăng 8,2% so với năm 2018. Ngoại trừ Australia giảm và Singapore giữ mức tương đương, trong 6 đối tác đã thực thi CPTPP, năm 2019, xuất khẩu sang Canada tăng mạnh nhất (29,8%), sau đó là Mexico (26,3%). Đây chính là hai đối tác có quan hệ FTA mới. Tuy nhiên, thị phần hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tại các nước đối tác CPTPP phần lớn còn thấp.

Đối với 11 FTA truyền thống, năm 2019, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường có FTA đã tăng rõ rệt, đạt 123,11 tỷ USD. Trong khi đó, năm 2004, Việt Nam mới có 2 đối tác FTA là ASEAN và Trung Quốc, với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 7 tỷ USD. Còn xét về tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân sang các thị trường đối tác FTA kể từ khi có FTA thì Ấn Độ đạt bình quân 35,7%/năm, Hàn Quốc đạt 29,2%/năm, Chile 28,9% và Trung Quốc 20,9%. Tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam sang các thị trường đối tác FTA của Việt Nam là 186 tỷ USD.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang là nước nhập siêu từ các thị trường có FTA do hai thị trường nhập khẩu lớn nhất hàng Việt Nam là Hoa Kỳ và EU đều chưa có FTA được đưa vào thực thi. Lý giải điều này, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho rằng, do các FTA Việt Nam tham gia cho tới nay về cơ bản là với các nước có cơ cấu kinh tế tương đối giống Việt Nam. Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam khá tương đồng, thậm chí là cạnh tranh như Ấn Độ, ASEAN, Trung Quốc… nên lợi ích thu được từ các FTA chưa mang tính đột phá.

“Các FTA mà Việt Nam là thành viên đem về thành tích rõ rệt về lượng, song vẫn chưa được chuyển đổi thành tích về chất” - Thứ trưởng Trần Quốc Khánh thẳng thắn thừa nhận.

Ông Nguyễn Mạnh Tiến - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội cho rằng, các FTA đối với các đối tác có nền sản xuất mang tính bổ sung như Nhật Bản, New Zealand, Chile… đem lại tác động tích cực. Thời gian tới, sẽ đàm phán với Khối thị trường chung Nam Mỹ, cũng là nền kinh tế có tính bổ sung.

Bên cạnh đó, việc cải cách thể chế, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực thi các FTA vẫn còn chậm. Ông Nguyễn Sĩ Cương - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội nhấn mạnh: Việc ban hành văn bản này là rất quan trọng vì đây là hành lang pháp lý để triển khai việc thực hiện các FTA. Nếu không sửa văn bản quy phạm pháp luật sẽ phải đối mặt bị kiện trong các cam kết mà Hiệp định đưa ra.

“Có lẽ hàng năm, bất kỳ FTA mới nào Chính phủ ký nên có ngay Đoàn giám sát để thúc đẩy Chính phủ vào cuộc. Đồng thời tăng cường công tác giám sát, đặc biệt giám sát các FTA mới ký, để đưa các FTA đi vào cuộc sống ngay”, ông Nguyễn Mạnh Tiến đề xuất.

Ngoài ra, với công tác tuyên truyền, các thành viên Đoàn giám sát cũng đề xuất cần phân loại đối tượng để phổ biến tuyên truyền các FTA, sản phẩm tuyên truyền phải cụ thể như xuất bản cẩm nang, câu hỏi vấn đáp. Tuy nhiên, việc tuyên truyền đạt hiệu quả cao khi các doanh nghiệp chủ động, sẵn sàng mọi tâm thế để thực thi các FTA có hiệu quả.

Đặc biệt, vấn đề tận dụng biện pháp phi thuế quan, hàng rào kỹ thuật, cần tư vấn cho doanh nghiệp đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật để vào thị trường các nước, đảm bảo xuất siêu chứ không triền miên nhập siêu; chuẩn bị khả năng giải quyết tranh chấp thương mại; rà soát lại Chiến lược tổng thể về tham gia FTA, cập nhật bổ sung đến năm 2030.

Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng báo cáo tại buổi làm việc .

Bốn kiến nghị của Bộ KH&ĐT

Báo cáo với Đoàn giám sát, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư Nguyễn Chí Dũng nêu nhiều tác động tích cực của các FTA, trong đó có việc góp phần đưa quan hệ giữa Việt Nam và các đối tác phát triển sâu rộng và thực chất hơn, mức độ đan xen lợi ích cao hơn và chặt chẽ hơn.

Việc thực hiện các FTA đặt ra những thách thức lớn hơn, đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật để bảo đảm tính nhất quán, đồng bộ, công bằng, minh bạch, không phân biệt đối xử, đúng trình tự thủ tục nhằm hạn chế tranh chấp phát sinh với nhà đầu tư nước ngoài và  giải quyết có hiệu quả những tranh chấp này, đồng thời cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế cảnh báo sớm để phòng, ngừa tranh chấp.

Với doanh nghiệp, việc mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư cùng với những cam kết về việc tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tiếp cận rộng rãi hơn với thị trường Việt Nam. Điều này sẽ đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước sức ép cạnh tranh lớn hơn ngay tại thị trường trong nước.

Những thách thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động đổi mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng suất lao động nhằm nâng cao sức cạnh tranh, tận dụng đối xử ưu đãi mà Việt Nam đạt được thông qua các FTA, người đứng đầu ngành kế hoạch và đầu tư nhấn mạnh.

Tại buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng kiến nghị Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội tiếp tục thực hiện các hoạt động đối ngoại để thúc đẩy các nước thành viên EU phê chuẩn Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU để hiệp định này sớm có hiệu lực và thay thế các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương đã được ký từ những năm 1990.

Kiến nghị tiếp theo là các cơ quan của Quốc hội tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư  và Toà án nhân dân Tối cao để ban hành các văn bản pháp luật thi hành các FTA để các hiệp định này được đưa vào cuộc sống, đảm bảo hiệu quả và thực chất.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng kiến nghị Quốc hội, Chính phủ tiếp tục quan tâm, ủng hộ đối với việc tham gia các điều ước quốc tế cần thiết cho việc thực hiện các FTA, như tham gia công ước Washington năm 1965 về giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và công dân của nhà nước khác (Công ước ICSID).

Kiến nghị cuối cùng từ Bộ trưởng là Quốc hội tiếp tục đồng hành với Chính phủ và các bộ, ngành trong việc nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp đối với sự cần thiết và cơ hội, thách thức của việc tham gia FTA.

Số lượt đọc: 239
Thông báo